Thursday, March 28, 2024

Những ngày cuối cùng tại quận Dĩ An


Góc chiến trường xưa:


 


CH Nguyễn Minh Châu


 


Lời tác giả: Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày tang tóc mà những người miền Nam không ai có thể quên được sau mấy mươi năm phải chịu đựng cuộc chiến điêu tàn đầy mồ hôi, nước mắt và xương máu. Cộng sản miền Bắc đã vi phạm Hiệp Ðịnh Paris cưỡng chiếm miền Nam để cai trị với chế độ độc tài sắt máu.


Trong bài viết nầy tôi xin kể lại tâm trạng não nề vào những ngày cuối cùng của các chiến sĩ âm thầm trong bóng tối vì ít được ai để ý tới họ. Ðấy là những chiến sĩ Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, các viên chức xã ấp cũng như lực lượng CSQG, cán bộ XDNT, và các chiến sĩ Nhân Dân Tự Vệ đã anh dũng ở lại cố thủ quận Dĩ An tới giờ phút cuối cùng.


Tôi xin ghi ơn những người đã tận tình giúp nước và cộng tác với tôi trong nhiều năm qua và xin thành kính tưởng niệm những người đã hy sinh vì tổ quốc.


 


“Họ là những anh hùng không tên tuổi


Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông


Không bao giờ được hưởng ánh vinh quang


Nhưng can đảm và tận tình giúp nước”


 


Trở về mái nhà xưa, cuộc bàn giao gấp rút và đơn giản vì tình hình đất nước đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng


 


Sau khi rời TÐ3 Sói Biển, tôi được biệt phái qua ngành hành chánh, tôi làm việc tại quận Dĩ An được gần 7 năm, về Ðức Hòa hơn 1 năm rồi trở về lại quận Dĩ An đúng một tháng trước ngày miền Nam bị thất thủ.


Buổi lễ bàn giao rất đơn giản, không kèn không trống, được tổ chức tại sân cờ của Bộ Chỉ Huy chi khu. Chủ tọa lễ bàn giao là Ðại Tá Lưu Yểm và một viên chức trên tỉnh Biên Hòa cùng xuống tham dự với ông. Tại quận thì có thiếu tá chi khu phó, ông phó quận trưởng hành chánh, các xã trưởng, các phân chi khu trưởng, các sĩ quan trưởng ban của chi khu, các trưởng ban trong văn phòng hành chánh quận, chi cảnh sát và cán bộ XDNT quận tham dự.


Tôi cũng xin nói thêm là tôi đã làm việc với ba vị tỉnh trưởng của Biên Hòa gồm có Trung Tá Nguyễn Văn Hai gốc Nhảy Dù mới về thay thế cố Ðại Tá Mã Sanh Nhơn cũng gốc Nhảy Dù đã được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Hậu Nghĩa kiêm trung đoàn trưởng của Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Kế đó là Ðại Tá Lâm Quang Chính, cựu trung đoàn trưởng của Sư Ðoàn 18 và sau cùng là cố Ðại Tá Lưu Yểm về từ tỉnh Phước Long. Tôi chỉ gặp ông Lưu Yểm có hai lần khi trở về đây làm việc dưới quyền ông. Các vị nầy đều có rất nhiều kinh nghiệm chiến trường nên được tư lịnh Quân Ðoàn III đề nghị làm tỉnh trưởng để bảo toàn an ninh lãnh thổ trong tỉnh.


Hiện nay tại thành phố San Jose có vài cựu sĩ quan trưởng ban của chi khu, vài vị xã trưởng và phân chi khu trưởng như Thiếu Úy Nguyễn Văn Gắn, v.v… và cảnh sát Quốc Gia đã từng làm việc với tôi rất lâu năm đã qua diện H.O.


Tại Mỹ, tôi cũng đã gặp lại vài anh em của quận Ðức Hòa như Trung Úy Lê Xuân Sang, trưởng phòng Nhân Dân Tự Vệ của quận, Ðại Úy Cao Thanh Vân, trưởng Ban 3 của Chi Khu Ðức Hòa, và Trung Úy Lên, phân chi khu trưởng, v.v…


Chúng tôi cũng rất vui mừng được gặp lại nhiều đồng bào quận nhà và các chiến sĩ trong những lần đại hội đồng hương Dĩ An tại Nam Cali. Tôi xin có lời cám ơn ông Ngụy Ðược, hội trưởng, Ban Cố Vấn và Ban Chấp Hành đã bỏ nhiều công sức để tổ chức những cuộc gặp gỡ thân tình cho người đồng hương. Tình đồng hương và tình đồng đội vẫn còn tốt đẹp. Tôi cũng lấy làm hãnh diện là các gia đình của đồng bào di tản trước hay qua sau đều được ổn định và có cuộc sống sung túc.


Ông quận trưởng bàn giao chức vụ lại cho tôi khi trở về Dĩ An lần thứ hai là Trung Tá Nguyễn Thế Thứ, người mà tôi đã bàn giao chức vụ quận trưởng Dĩ An cho ông ta hơn một năm trước đây để tôi đi nhận chức quận trưởng Ðức Hòa, Hậu Nghĩa.


Lúc nầy tinh thần tôi bị dao động nhiều vì tình hình đất nước hết sức căng thẳng và tôi cảm thấy vui buồn lẫn lộn. Tôi cảm thấy vui là được gặp lại cảnh cũ, người xưa mà tôi đã làm việc tại đây gần bảy năm. Tôi cảm thấy buồn là vì tôi phải rời bỏ quận Ðức Hòa mà tôi cũng yêu mến và ngược lại họ cũng luyến tiếc sự ra đi của tôi, mặc dù tôi chỉ làm việc tại đây chỉ hơn một năm. Tôi phải từ giã vị tỉnh trưởng Hậu Nghĩa là Ðại Tá Tôn Thất Soạn cũng là cựu chiến đoàn trưởng TQLC của tôi trước kia.


Bàn giao chức vụ xong là tôi bắt tay vào việc ngay vì tôi đã nắm vững tình hình lãnh thổ của quận Dĩ An từ lâu rồi. Tất cả mọi đơn vị của chi khu ráo riết đặt kế hoạch phòng thủ chống chiến xa địch. Căn cứ phòng thủ của Bộ Chỉ Huy chi khu là căn cứ cũ của lực lượng Ðại Hàn rất kiên cố, hơn nữa sau Hiệp Ðịnh Paris đầu năm 1973, các đơn vị Ðồng Minh trước khi rút đi đã để lại cho chúng tôi rất nhiều vũ khí đạn dược và gần 100 cây M72 chống chiến xa, do Ðại Úy Thành, trưởng Ban 4 Chi Khu, ngoại giao xin giữ lại, nên anh em chúng tôi cũng yên tâm. Trước ngày 30 tháng 4, 1975, Ðại Úy Thành có nhắc nhở và đề nghị tôi cho phân phối hết đồ quân tiếp vụ cho trại gia binh, tôi đã chấp nhận ý kiến sáng suốt nầy, nếu chúng tôi bị bao vây cũng có lương thực cầm cự được một thời gian. Anh em Nghĩa Quân được may mắn là nhân viên của Tiểu Khu Biên Hòa đã xuống quận phát lương trước đó vài ngày. Ðại Úy Thành đã vượt biên sau khi đi tù và gia đình ông nay đang sống tại San Jose.


 


Một quyết định khó khăn


 


Tôi phải ở lại đến giờ phút cuối cùng với anh em chiến sĩ và đồng bào. Tình hình tại quận còn rất yên tịnh, chưa có việc gì xảy ra. Chúng tôi chưa bị quân cộng sản tấn công và pháo kích, nhưng một số chiến sĩ cũng nao núng vì nghe tin chỗ nầy di tản chiến thuật chỗ kia rút quân, người thì mang gia đình xuống tàu kẻ xuống ghe đánh cá ra khơi, và một số người đã được phi cơ Mỹ cho di tản từ phi trường TSN trước đó mấy tuần. Ông bà ngoại mấy cháu của chúng tôi sợ nguy hiểm đến tánh mạng của mấy cháu nhỏ, nên mang hết về Saigon cho tôi rảnh tay lo nhiệm vụ. Vợ tôi thì nhứt quyết ở lại căn cứ để yểm trợ tinh thần tôi, nên anh em chiến sĩ và đồng bào còn thấy sự hiện diện của vợ chồng chúng tôi cũng bớt hoang mang và lo lắng.


Một điều nữa làm cho tôi đắn đo không thể bỏ quận được là vì trong 7 năm tôi được sát cánh làm việc ngày đêm với anh em Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân, viên chức quận xã ấp, cán bộ XDNT và lực lượng CSQG làm việc trong tình thương mến đậm đà. Các cơ quan và đơn vị hết lòng làm tròn trọng trách nên nhiều năm qua tình hình Dĩ An rất yên tịnh, dân chúng sống thanh bình làm ăn phát đạt. Quân được Dân thương mến và khắng khít thật là tình Dân với Quân như cá với nước. Khi tôi được cấp trên đổi về lại quận cũ, anh em chiến sĩ vui mừng như gặp lại người anh cả đã vắng mặt đi xa mới về, và đồng bào cũng vui vẻ đón nhận tôi như một đứa con biệt ly nay trở về quê cũ, nên tôi xem quận Dĩ An như có mối tình thiêng liêng gắn liền với đời tôi. Tôi hết lòng cám ơn những chiến sĩ và viên chức, lực lượng CSQG và cả lực lượng Nhân Dân Tự Vệ đã hăng say cộng tác với tôi trong nhiều năm. Tôi xin nghiêng mình trước những anh linh của những người trong quận Dĩ An đã hy sinh vì nhiệm vụ với tổ quốc.


Ðến nay, tôi vẫn còn nhớ mãi Nghĩa Quân Nguyễn Văn Giữ, người cận vệ can đảm đã theo tôi suốt bao nhiêu năm. Vì lúc ấy tôi đi đứng phải chống gậy nên ông đã giúp, đỡ đần tôi trong những lần nhảy trực thăng hay leo đồi lội suối trong các cuộc hành quân, ông luôn bên cạnh để bảo vệ tôi. Ông đã chết trong trại cải tạo năm 1979 vì bạo bịnh mà không có thuốc chữa. Thỉnh thoảng chúng tôi có gởi quà về gia đình để đền đáp công ơn ông đã giúp tôi suốt thời gian tôi làm việc tại Dĩ An.


Trong đời binh nghiệp của tôi có ba chiến sĩ cận vệ và luôn luôn sát cánh bên tôi trong các trận mạc nay đã ra người thiên cổ. Ngoài Nghĩa Quân Nguyễn Văn Giữ tôi vẫn còn nhớ và không quên ơn cố Trung Sĩ Nguyễn Văn Liễn, trước khi ông tử trận ở quận Bồng Sơn, tỉnh Bình Ðịnh, ông là hạ sĩ thuộc toán Biệt Kích của tôi, lúc tôi còn là tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 3 TQLC. Ông nầy đã tận tình lo cho tôi lúc bị tôi bị thương nặng nằm bịnh viện Huế và Ðà Nẵng. Còn một chiến sĩ nữa cũng luôn luôn sát cánh cánh bên tôi ngoài chiến trường là Hạ Sĩ I Nhứt Hồ, nhân viên truyền tin của tôi đã bị tử trận ở Vùng I chiến thuật. Tôi luôn thành kính tưởng niệm và ghi ơn ba chiến sĩ nầy đã giúp tôi rất nhiều.


 


Ðêm chờ sáng và cũng là đêm cuối cùng chấm dứt đời binh nghiệp của tôi đúng 21 năm


 


Tất cả các chiến sĩ Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và viên chức quận, xã, ấp và CBXDNT cũng như CSQG trong quận đều tuân lệnh thượng cấp quyết ở lại cố thủ. Nhưng đến đêm 29 rạng 30 tháng 4, chúng tôi bị bỏ rơi, chới với, vì mất liên lạc với Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu tỉnh Biên Hòa và không biết phải nhận lệnh nơi đâu. Ðông Tây Nam Bắc chẳng còn ai yểm trợ, trong khi đó chúng tôi được tin tình báo là một trung đoàn Cộng Sản BV cùng chiến xa T54 đã di chuyển từ hướng Tân Uyên tới rừng Cò Mi phía Bắc quận Dĩ An rồi dừng lại đấy. Chiều hôm đó, tôi phải nhờ pháo binh của căn cứ TQLC bắn chận mấy trăm quả 105 và 155 ly. Vị chỉ huy căn cứ Sóng Thần giúp tôi lúc đó là Trung Tá Ân và cũng là chỉ huy trưởng TTHL/TQLC. Vị sĩ quan trực tiếp chỉ huy các pháo đội TQLC bắn yểm trợ là Ðại Úy Minh TQLC, hiện ông Minh đang sống cùng gia đình tại San Jose.


Chúng tôi tiến thối lưỡng nan, thôi đành phải liều quyết tử thủ tới đâu hay đến đó, đành phó mặc số phận cho Trời định.


Thật là một đêm hãi hùng, hồi hộp, tất cả từ quan tới lính với súng chống chiến xa, súng đại liên và súng cá nhân cầm tay, thức sáng đêm chờ địch nơi phòng tuyến. Tiếng súng pháo binh và đại bác của chiến xa ta và địch nổ vang dội từ hướng Hậu Nghĩa và căn cứ Sư Ðoàn 25 BB tại Củ Chi. Nhìn những ánh sáng hỏa châu chiếu chập chờn nơi cuối trời ở phương Tây, phương Ðông và phương Bắc, và nhìn về hướng Saigon thấy ánh đèn phi cơ trực thăng lên xuống, chúng tôi đoán là Mỹ đang tiếp tục bốc người của họ di tản, anh em chúng tôi rất não lòng không biết vận mạng quận Dĩ An nói riêng và vận mạng miền Nam sẽ ra sao? Mong chờ đến sáng rồi sẽ tính. Nhưng vào gần sáng toán quân thám thính ở tiền đồn gọi máy báo về Bộ Chỉ Huy Chi Khu là chiến xa địch đã đổi hướng bọc xa lộ vòng đai từ hướng Lái Thiêu trực chỉ Saigon.


 


Giã từ vũ khí trong sự uất hận và tủi nhục


 


Quân lịnh buông súng rã hàng


Xé tan đời lính, vạn người khổ đau!


(Trích bài thơ Ðêm Cuối Cùng của Tuyết Nga)


 


Sáng hôm sau lúc 10 giờ, tiếng nói Ðại Tướng Dương văn Minh loan báo trên đài phát thanh Saigon ra lệnh tất cả các đơn vị buông súng đầu hàng. Cái tin sét đánh làm cho mọi người từ quan tới lính, cả trại gia binh và dân chúng đều bàng hoàng rơi lệ. Tôi liền dùng máy truyền tin thông báo cho các chiến sĩ và viên chức quận, xã, ấp hủy diệt tất cả tài liệu, hãy rời đơn vị và nhiệm sở với những lời chúc lành cùng họ và gia đình, và nói vài câu giã từ trong nghẹn ngào uất hận, không cầm được nước mắt.


Sau đó, vợ chồng chúng tôi và một số anh em chiến sĩ có gia đình tại Thủ Ðô rời căn cứ di chuyển về Saigon, vì chậm trễ sẽ rất nguy hại khi bọn Việt Cộng địa phương vào chiếm căn cứ. Nhưng sau đó chúng tôi được tin là đến chiều hôm đó bọn VC mới dám vào chi khu.


Toán di tản của chúng tôi gồm có một xe Jeep, trên xe có tôi, vợ tôi một tài xế và hai cận vệ, Thiếu Úy Tâm, BCH Chi Khu, và Ðại Úy Vân, Giang Ðoàn Trưởng Giang Cảnh sông Ðồng Nai, tỉnh Biên Hòa. Ðại Úy Vân là em vợ của tôi vì thương chị nên ở lại với chúng tôi trong đêm cuối cùng. Trưa ngày 29 tháng 4, 1975, theo lịnh của Bộ Chỉ Huy Giang Cảnh, Ðại Úy Vân cho tất cả tàu của Ðại Ðội Giang Cảnh về căn cứ ở Nhà Bè nhưng ông ở lại với chúng tôi từ chiều ngày ấy. Nếu ông muốn ra khơi để gặp Ðệ Thất Hạm Ðội thì quá dễ dàng. Theo sau xe Jeep của tôi còn có một chiếc xe GMC và một chiếc Dodge 4×4 chở các anh em của Bộ Chỉ Huy chi khu đi theo.


Mới ngày nào khi ra khu phố quận hay vào xã ấp gặp gỡ đồng bào, anh em chúng tôi lấy làm hãnh diện với dân chúng vì công cuộc bình định lãnh thổ được tốt đẹp. Nhờ những sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân và công lao nhọc nhằn của các Viên chức xã ấp, Cán bộ XDNT và lực lượng CSQG, nên đồng bào quận Dĩ An được vui hưởng cảnh thanh bình trong nhiều năm qua.


Nhưng sáng hôm nay, khi chúng tôi đi ngang qua khu phố chợ Dĩ An, đông đảo dân chúng ngậm ngùi đứng nhìn chúng tôi đi qua, tôi cảm thấy xấu hổ mà muốn độn thổ vì nay mình là lính bại trận. Thoáng nhìn nét mặt u buồn của đồng bào tôi biết là họ đang âm thầm, lặng lẽ tiễn đưa và từ giã chúng tôi ra đi trong sự nghẹn ngào và thương tiếc! Anh em chiến sĩ chúng tôi buồn lắm vì phải bỏ họ lại trong tình thương và nỗi nhớ!


Ra đến ngã ba Cây Lơn và Quốc lộ số 1, toán BCH chúng tôi tháp tùng đoàn quân di tản của các đơn vị thuộc SÐ18BB, các đơn vị thuộc căn cứ Long Bình gồm có Công Binh, Pháo Binh, v.v… kẻ đi xe người đi bộ lũ lượt đi về hướng Gia Ðịnh để về Saigon. Ðến gần cầu Gò Dưa, xe Jeep của tôi bị vài tên du kích trong làng bắn một quả B40 nhưng không trúng và rơi nằm ngay giữa đường lộ trước đầu xe. Chú tài xế tránh quả đạn và phóng ga chạy nhanh cho ra khỏi tầm mắt mấy thằng du kích nầy. Thật buồn! và bực tức, tôi chửi thầm: Ðồ khốn kiếp! Trước đây một ngày chúng bây thấy bóng dáng anh em chiến sĩ chúng tao là chúng bây chạy chết cha! Bây giờ theo lịnh cấp trên chúng tao đã buông súng mà chúng bây hành động hèn hạ như thế. Nếu xe Jeep bị trúng một trái B40 thôi thì chắc chắn tôi và vợ tôi với vài anh em bị tiêu mạng.


Trên đường di tản từ Quốc lộ số 1 về Saigon, tới Gia Ðịnh chúng tôi gặp thấy nhiều xác chết của những người chiến sĩ Dù và BÐQ? nằm rải rác đó đây lẫn lộn cả những thây của dân chúng có cả phụ nữ và trẻ con. Quang cảnh thật là vô cùng thê thảm. Khi về đến Chợ Lớn chúng tôi vẫn còn nghe lác đác những tiếng súng nổ ở hướng ngã tư Bảy Hiền của các anh em chiến sĩ Nhảy Dù có lẽ tức mình rồi bắn chỉ thiên như có vẻ không bằng lòng tuân lịnh đầu hàng.


Khi về tới nhà cha mẹ vợ tôi gần hãng Beer ở Chợ Lớn, chúng tôi từ giã các chiến sĩ của Bộ Chỉ Huy chi khu quận Dĩ An để ai về nhà nấy. Các anh em khóc sụt sùi và hứa hẹn hôm nào sẽ trở lại thăm chúng tôi. Nhưng tôi tự nói trong lòng: Than ôi! Nước đã mất rồi, biết ngày mai sẽ ra sao???


Ngày 30 tháng 4, 1975 đã chấm dứt đời binh nghiệp của tôi đúng 21 năm, vì ngày nhập ngũ của tôi cũng vào tháng 4 năm 1954.


Vợ tôi đã chứng kiến những sự việc đã xảy ra tại quận Dĩ An vào những ngày cuối cùng và thấy những thảm cảnh trên đoạn đường di tản về Saigon nên viết vài dòng thơ như những lời than thở khi nhớ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 không bao giờ quên.


 


Nhớ ngày Tháng Tư


 


Tháng Tư cũng lại trở về


Gợi người viễn xứ vọng về cố hương


Nhớ chăng ngày ấy uất hờn


Lệnh đành buông súng tan hàng đớn đau.


Nhớ chăng ngày ấy thảm thương


Anh hùng tuẫn tiết, giữ tròn thanh danh


Nhớ chăng ngày ấy điêu linh


Gia đình tứ tán, cửa nhà tan hoang


Nhớ chăng ngày ấy hãi hùng


Dắt dìu chạy loạn, xác người ngổn ngang


Nhớ chăng ngày ấy ngậm ngùi


Âm thầm bỏ xứ, mắt nhòe lệ rơi


Nhớ chăng người chẳng ra đi


Mang thân tù tội, lưu đày Bắc phương


Nhớ chăng khổ nhục anh hùng


Thất thời lỡ vận, phải đành tang thương


Nhớ chăng những bậc vợ hiền


Gian truân dầu dãi, gánh gồng nuôi con


Nhớ chăng bụng mẹ còn mang


Con chưa biết mặt, thân cha chết tù


Còn bao cái nhớ đoạn trường


Nhớ đi, nhớ lại không ngừng lệ rơi


Bây giờ lạc mãi trời xa


Mấy mươi năm lẻ, Tháng Tư ngậm ngùi.


(TN)

MỚI CẬP NHẬT