Thursday, March 28, 2024

Tâm bệnh của người Mỹ

Tác giả: Bác sỹ E. Fuller Torrey

Phỏng dịch: GS. Alexander Lê Trung Cang



Bài 1: Giải tán bệnh nhân, đóng cửa bệnh viện!



Loạt bài này được trích phỏng dịch từ quyển sách “American Psychosis” (“Tâm Bệnh Của Người Mỹ: Chính phủ liên bang đã hủy hoại hệ thống điều trị bệnh tâm thần như thế nào”). Tựa bài do Người Việt Online đặt.



Giai đoạn và thời đại của Tổng thống Ronald Reagan đã làm gia tăng nạn vô gia cư, tâm bệnh, và những vụ sát thương nguy hiểm trên toàn quốc.



Ronald Reagan-cựu tổng thống nước Mỹ và là cựu thống đốc tiểu bang Californina, đã đưa quốc gia vào hoàn cảnh suy tệ trầm trọng, và kéo dài cho đến những năm sau.



Trong tháng 11, 1980, Ronald Reagan của đảng Cộng Hòa đã đánh bại cựu tổng thống Jimmy Carter trong kỳ bầu cử, chỉ được 42% số phiếu hỗ trợ.  Đảng Cộng Hòa nắm toàn quyền khối Thượng nghị viện trong Quốc hội (53-46).  Đây là lần đầu tiên đảng Cộng hòa nắm được quyền hành cả hai nhánh trong quốc hội từ 1954. Mặc dù khối hạ nghị viện vẫn còn nằm dưới quyền hành của đảng Dân Chủ (243-192), nhưng phần thắng của họ thật sự “khiêm tốn”, bởi vì còn nhiều đảng Dân Chủ miền nam Mỹ như “những con bọ gây tệ hại – boll weevil” đã bỏ phiếu cho đảng Cộng Hòa.






Ronald Reagan. Hình: Joe Marquette. Nguồn: Reuters



Một tháng trước cuộc bầu cử, Cựu tổng thống Carter đã ký chấp thuận thi hành Quyết Nghị Hệ Thống Sức Khỏe Nội Tâm (Mental Health System Act), chương trình này đã được đề nghị để tiếp tục phục vụ trung tâm cộng đồng liên bang, có trách nhiệm về sức khỏe nội tâm, cùng với một số hỗ trợ tham gia của vài tiểu bang.



Tương đồng với những đề quyết do ủy ban đảm nhiệm của khối Carter, quyết nghị này cũng đi kèm với một số ngân quỹ từ liên bang, “cho chương trình tránh ngừa những tình trạng tâm bệnh và cổ động khích lệ thêm sức khỏe tư tưởng lành mạnh”.  Sự kiện này đã nói lên sự hạn chế học hỏi và nghiên cứu dưới ủy ban đảm nhiệm của khối Carter và các chuyên gia của Cơ Quan Quốc Gia Sức Khỏe Nội Tâm (National Institute of Mental Health – NIMH).  Khi Tổng Thống Reagan và đảng Cộng Hòa nắm trọn quyền hành, kế hoạch Quyết Nghị Hệ Thống Sức Khỏe Nội Tâm cho quốc gia đã bị hủy bỏ hoàn toàn trước khi chữ ký được khô vết mực, và chương trình tài trợ cho các Trung Tâm Tư Vấn Sức Khỏe Nội Tâm (Counseling and Mental Health Center – CMHC) đã bị cắt đứt tại các tiểu bang. Khi mổ xẻ để tìm nguyên do thì mới biết rằng nó đã gây ra bởi những cá nhân có quyết định sai lầm, u tối, và thiếu kinh nghiệm. 



Cựu Tổng Thống Reagan chưa hề hiểu rõ được tình trạng của tâm bệnh.  Tương tự như cựu Tổng Thống Richard Nixon, người xuất thân và được đào tạo từ khối tư tưởng của vùng miền nam California, ví tình trạng tâm bệnh giống như một bệnh trạng tư tưởng của đảng Cộng sản.  Hai tháng sau khi đảm nhiệm chức vụ tổng thống, TT Reagan đã bị bắn ám sát bởi John Hinckley, một người trai trẻ đang mang tâm bệnh rối loạn tâm tư (schizophrenia). 



Hai năm sau, ngài Reagan gọi vị bác sĩ Roger Peele (lúc đó còn là tổng trưởng quản lý bệnh viện tâm thần Saint Elizabeths, là nơi Hinckley đang được điều trị), muốn dàn xếp gặp và khoan hồng tha tội cho Hinckley.  Bác sĩ Peele đã khéo léo nói với Tổng thống rằng không nên làm như vậy.  TT Reagan cũng đã chứng kiến hậu quả của những tâm bệnh khi thiếu điều trị hữu hiệu qua sự việc của hai người con trai của cố vấn thuế vụ riêng, là Roy Miller. Một người tự sát năm 1981, và cậu trai thứ hai đã giết hại mẹ của mình năm 1983.  Dù chứng kiến những vụ như vậy,  TT Reagan chẳng hề quan tâm đến nhu cầu nghiên cứu cần thiết và điều trị hữu hiệu cho những tâm bệnh trầm trọng này. 



Vào cuối năm 1950, California đã dẫn đầu trong công tác di chuyển một số bệnh nhân từ bệnh viện tiểu bang về các nhóm trại y viện cư trú nhỏ, có y tá thường xuyên trông nom, chăm sóc và cho thuốc (nursing home, board-and-care homes); (các tiểu bang khác tạm gọi là những group homes, boarding homes, adult care homes, family care homes, assisted living facilities, community residential facilities, adult foster homes, transitional living facilities, and residential care facilities).






Một nursing home ở California. Hình minh hoạ. Nguồn: nursinghomeabuselawyerblog.com



Các bệnh viện lớn đóng cửa vĩnh viễn sau khi các bệnh nhân dời qua các trại nhỏ.  Đến lúc Ronald Reagan nắm vai thống đốc tiểu bang năm 1967, thì tiểu bang California đã di tản hơn 50% bệnh nhân ra khỏi các bệnh viện lớn. Cùng trong năm đó, tiểu bang California đã ban ra định luật dưới tên Lanterman-Petris-Short (LPS). Định luật này hầu như cấm thu nhận bệnh nhân có bệnh thông thường, ngoại trừ những người đang trong tình trạng thật sự trầm trọng.



Dưới định luật LPS, vào đầu năm 1970, các bệnh viện của tiểu bang California đã chuyển đi đa số các bệnh nhân tâm thần, đồng thời, dù tâm bệnh tái phát cũng rất khó hội đủ điều kiện để được tái gia nhập viện. California là tiểu bang đầu tiên thử nghiệm kế hoạch chuyển bệnh nhân tâm thần từ bệnh viện do chính phủ tài trợ, sang những trại y viện tư nhân quản lý (deinstitutionalization).



Trước đó vào năm 1969, một nhóm khảm nghiệm về những trại y viện tư tại California  (board-and-care homes) đã trình bày như sau:

Những trại y viện này hoàn toàn cách biệt với sinh hoạt của những người bên ngoài.  Một bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng trầm trọng bởi bầu không khí buồn thảm bên trong của trại… Những người này phải cố gắng chịu đựng sự chung chạ và chật hẹp. Ở đây chỉ một phần nhỏ giống như một bệnh viện của chính phủ mà thôi…Những người điều hành trong trại được trả đồng lương cố định và ít ỏi từ cấp trên, không tương xứng với sự nỗ lực phục vụ để giúp đỡ người bệnh.



Tài liệu khảo nghiệm trên đã được bác sỹ Richard Lamb thực hiện. Bác sỹ Richard Lamb là bác sỹ chuyên khoa tâm thần trẻ tuổi phục vụ cho quận San Mateo, California.  Trong những năm sau đó, ông đã trở thành bác sĩ dẫn đầu chuyên khoa tâm thần khi nêu ra nhiều yếu tố thiệt hại và thất bại trong kế hoạch chuyển giải bệnh nhân tâm thần qua những trại y viện tư nhân. 



Cho đến năm 1975, những khu trại chăm sóc tại tư gia đã trở thành một hoạt động kinh doanh lớn.  Riêng trong thành phố Los Angeles, có tổng cộng đến khoảng 11,000 bệnh nhân đã rời khỏi từ bệnh viện lớn qua những trại chăm sóc tư nhân.  Đa số những y viện thuộc chủ quyền của một nhóm đầu tư kinh doanh có nhiều chi nhánh, như nhóm Beverly Enterprises có chủ quyền 38 căn nhà.

Năm người tổng điều hành trong nhóm Beverly Enterprises là những người đã có liên hệ mật thiết với thống đốc Reagan.  Chủ tịch của nhóm này là phó chủ tịch khối gây quỹ tranh cử cho Reagan, và bốn người trong nhóm là thành phần tham gia vận động bầu cử chính trị đắc lực cho Reagan, hoặc đã đóng góp tổng số tiền kín đáo vào cuộc vận động bầu cử. 

 

Có rất nhiều trại chăm sóc tại tư gia ở California, cũng như những nơi khác, là những khu nhà nằm rải rác trong thành phố, được giảm giá thuê và chi phí.  Thí dụ như trong thành phố San Jose, có khoảng 1,800 bệnh nhân đã bị giải tán từ bệnh viện tiểu bang Agnews được chuyển đến khu nhà suy sụp, gần khu chung cư cho sinh viên của trường đại học San Jose.  Đầu năm 1971, báo chí trong khu vực lên tiếng rất mạnh mẽ về “luồng xâm nhập của những người bệnh tâm thần.”  Một số bệnh nhân đã bỏ trại chăm sóc, không thể tiếp tục sống vì tình trạng hư tệ bên trong; một số bệnh nhân khác bị đuổi ra khỏi trại vì bệnh điên tái phát mà không có thuốc để dằn những cơn bạo động. Hệ qủa là rất nhiều người phải sống ngoài đường, nghèo đói, và vô gia cư.  Đến thời năm 1973, San Jose được tả là một nơi có nhiều bệnh nhân bị đuổi, sống trên vỉa hè, lang thang không định hướng, một khu tệ mạt của những người mang tâm bệnh và chậm phát triển.






Người vô gia cư. Hình minh hoạ. Nguồn: theguardian.com



Tình trạng trên tại các thành phố của California cũng xảy ra tương tự ở các thành phố khác ở New York. Tại thành phố Long Beach của Long Island, một khách sạn nhỏ và một biệt thự lớn đã chứa đầy bệnh nhân giải tán từ bệnh viện tiểu bang, Creedmore và Pilgrim. Đến năm 1973, dân cư trong cộng đồng đã than phiền rằng khu của họ đã biến thành “khu bệnh tâm thần”. Tại một nhà thờ, những bệnh nhân đã đái tiểu trên cả sàn gạch.  Chính vì vậy, ban hội đồng thành phố Long Beach đưa ra điều kiện bắt buộc bệnh nhân phải uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ nếu sống trong thành phố.  Như đã tiên đoán, hội đoàn tranh đấu quyền tự do của New York (Civil Liberty Union) lập tức thách đấu cho rằng điều luật trên là trái với hiến pháp, nhưng đã bị bác bỏ.  



Cho đến lúc này, đã có khoảng 5,000 tư gia chăm sóc bệnh nhân tại thành phố New York, vài trại có đến 285 cái giường, 85% bệnh nhân đến từ bệnh viện tiểu bang.  Một bác sỹ khoa tâm thần nói: “Số bệnh nhân tâm thần lầu năm đã có riêng cách sống và tự túc, đồng thời họ phải chuyển từ một bệnh viện vốn đã tồi tệ để đến những nơi khốn khổ, tệ hại hơn.”



California là tiểu bang đầu tiên đã chứng kiến không chỉ sự gia tăng nạn vô gia cư liên quan đến giải tán bệnh viện, mà cả sự gia tăng nạn giam nhốt vào trại tù và những bạo động hành hung trong xã hội.  Trong năm 1972, bác sỹ y khoa, chuyên khoa tâm lý tội phạm của quận San Mateo, Marc Abramson, xuất bản một tài liệu nổi bật “Hành Vi Gian Ác Của Người Hỗn Loạn Tâm Trí” (Criminalization of Mentally Disorder Behavior).

  

Bác sỹ Abramson xác định rằng bởi vì định luật LPS đã không tạo ra điều kiện cho nhà thương tâm thần nhận bệnh nhân.  Các chuyên viên cảnh sát cho rằng “bắt và nhốt vào tù là cách an toàn, và bảo đảm nhất đối với những người mắc bệnh tâm thần.”  Bác sĩ Abramson dẫn chứng lời của một bác sĩ tâm thần trong trại tù tiểu bang California: “Đã có thêm rất nhiều đàn ông bị giam vào tù vì mắc bệnh tâm thần trầm trọng.”  Bài viết của bác sỹ Abramson đầu tiên được trình bày rõ ràng tình trạng gia tăng của những người bệnh tâm thần bị giam vào trại tù quận (jail) và tù tiểu bang (prison). Sự gia tăng này vẫn tiếp tục trong những năm kế tiếp.



Đến giữa năm 1970, có bài nghiên cứu của vài tiểu bang tiết lộ có khoảng 5% tù nhân mắc bệnh tâm thần trầm trọng.  Theo một nghiên cứu từ năm trại tù của quận, có 6.7% tù nhân mắc bệnh tâm thần.  Khảm nghiệm của trại tù quận ở Denver cho thấy có 5% tù nhân trong tình trạng “tâm thần nhưng tạm ổn định.”  Con số này cao hơn so với báo cáo của năm 1930 là ít hơn 2% tù nhân mắc bệnh tâm thần.  Trong năm 1973, trại tù của quận Santa Clara, bao gồm San Jose,  đã phải thành lập một “khu trại tù đặc biệt”, dành riêng cho những cá nhân mắc bệnh tâm thần.  Đây là trại tù quận đầu tiên có khu đặc biệt cho tù nhân mắc bệnh tâm thần.



Bài 2: Tệ trạng lan rộng toàn quốc


MỚI CẬP NHẬT