Friday, April 19, 2024

Ðau lưng, thắt lưng và cổ

Bác Sĩ Ðặng Trần Hào

 

LTS: Bác Sĩ Ðặng Trần Hào tốt nghiệp bác sĩ y khoa Ðông Phương tại Samra University, Los Angeles, năm 1987, và được mời tham dự hội đồng State Board về châm cứu và Ðông dược. Mục này giúp cho ai muốn tìm hiểu về Ðông dược và muốn góp ý cho kho tàng Ðông dược phong phú hơn để phục vụ bệnh nhân. Quý vị có thể liên lạc bác sĩ tại điện thoại (714) 531-8229 hoặc email [email protected].

 

Thường do những nguyên nhân chính sau đây gây ra đau:

-Do nguyên nhân bên ngoài như: Phong-thấp-hàn-nhiệt.

-Do nguyên nhân bên trong như thận suy (dương suy và âm suy).

-Do huyết không thông.

-Do làm việc nặng nhọc.

-Do sự thoái hóa các khớp xương, thường xảy ra với những người trên 60 tuổi.

Ðau do phong:

Phong có đặc tính di động, và làm giới hạn sự cử động, phong là dương tà hay đi lên và ra ngoài, nên hay gây đau ở phần trên của cơ thể và phần ngoài da, như ra mồ hôi, sợ gió.

Bệnh do phong hay di chuyển như đau các khớp xương, đau chỗ này, đau chỗ khác, ngứa nhiều chỗ nên gọi là “phong động”, biến hóa, nặng nhẹ bất thường và mau lẹ.

Còn nội phong, do gan phong gây ra kích động tới gân cơ, hay gan huyết hư, không đủ để nuôi gân.

Thường do giận hờn, bực bội, lo lắng từ ngày nọ qua ngày kia làm gan bị uất kết, cản trở đường đi của gan, gây ra đau ở chỗ tay với không tới, ngang với T7 (đốt xương sống số bẩy) rất khó chịu, đôi khi đau khủng khiếp, vì đường đi của gan bị nghẹt, không lưu thông được mà gây ra đau. Trường hợp này là sở trường của châm cứu. Chỉ cần châm cứu một lần, khơi sự bế tắc là bệnh giảm ngay lập tức sau khi châm và thường khỏi hẳn.

Ngoài ra thường hay đau vùng cổ từ C1 tới C7, vì phong hay đi lên, nên ảnh hưởng vùng này và vùng từ T1 tới T7 của cột xương sống nhiều hơn.

Chủ trị: Giải phong và bình nội phong.

Ðau do thấp:

Thấp gồm hai loại: Ngoại thấp, độ ẩm thấp là chủ khí về mùa hạ, hay gập ở những nơi ẩm thấp, và những người thường làm việc ở những nơi này. Nội thấp do tì khí suy, không kiện toàn tiêu hóa, tân dịch đình trệ gây ra thấp.

Ðặc tính của thấp hay gây ra chứng nặng nề và đau khớp xương lưng, và chân tay.

Chủ trị: Trừ thấp, bổ tì khí.

Ðau do hàn:

Hàn có hai loại: Ngoại hàn do lạnh, chủ về mùa đông. Nội hàn là do dương khí của cơ thể suy mà gây ra.

Ðặc tính của hàn là âm tà, làm tổn thương dương khí, phạm vào da, cơ, gây ra co rút, làm bế tắc kinh mạch, gây ra co cứng cơ: Ðau cổ, vai lưng, chuột rút các cơ.

Nội hàn do dương hư: Người già sợ lạnh, tay chân lạnh, đau thắt lưng, nhất là vào mùa đông khí trời lạnh, ảnh hưởng từ ngoài vào trong, thêm với dương suy làm gia tăng lạnh, đau nhức nhiều hơn.

Chủ trị: Trừ hàn, bổ thận và tì khí.

Ðau do hỏa:

Hỏa hay gây ra nóng, và chứng viêm, sưng.

Nhưng cần phải phân biệt hư hỏa và thực hỏa do ngoại cảnh ảnh hưởng.

Vì hỏa gây viêm và sưng các khớp xương, nên thường gây ra đau xương sống, vai, thắt lưng và nhất là đầu gối làm đi đứng khó khăn.

Chủ trị: Thanh nhiệt trường hợp do ngoại nhiệt xâm nhập cơ thể, bổ thận âm trong trường hợp hư hỏa gây ra viêm và đau.

Ðau lưng do thận dương suy gây ra:

Thận dương suy còn gọi là mạng môn hỏa suy:Bệnh nhân lạnh tứ chi, đau âm ỉ vùng thắt lưng, đầu gối yếu, đau, vô lực, xuất tinh sớm, rụng răng trước tuổi, mất thính giác, liệt dương, nước tiểu trắng trong, đi tiểu nhiều lần, ngày nhiều hơn đêm, phù chân, nhạt miệng, rêu lưỡi trắng. Mạch trầm, trì và vô lực.

Tùy theo trường hợp suy nhiều hay ít có thể phân ra ba trường hợp: Thứ nhất là phù thũng và tim hồi hộp. Thứ hai phù thũng và tiêu hóa không kiện toàn, đầy bụng, ăn không tiêu. Thứ ba là ho mãn tính, thở hụt hơi và suyễn, cuối cùng là thận bất nạp khí.

Nhiều loại bệnh liên quan tới thận dương suy được Tây y định bệnh: Viêm thận mãn tính, đau lưng, sinh lý yếu, bất lực, tiêu nhiều và bệnh tiền liệt tuyến, nang thượng thân yếu, giảm năng tuyến giáp trạng (hypothyroidism), suyễn mãn tính hay khí thũng, bệnh tim, viêm đường ruột mãn tính, lỵ mãn tính, phù do trai gan.

Chủ trị: Bổ thận dương, dùng bài Bát Vị.

Ðau lưng do thận âm suy:

Thận âm suy về chiều sẽ mệt mỏi hơn buổi sáng, càng về đêm hư hỏa (giả nhiệt) càng gia tăng. Theo ngũ hành thận thuộc hành thủy và tim thuộc hành hỏa tương khắc với nhau, một khi thận âm suy sẽ làm tim không có chỗ tựa, nên đập nhanh hơn bình thường vào đêm. Vì tim tàng thần, mà thần không có chỗ để tàng nên gây ngủ chập chờn, ngủ không ngon giấc, nếu thận suy nhiều thì đôi khi thức trắng đêm, đi tiểu nhiều lần nhất là về đêm, phừng mặt để lâu gây nám mặt, dưới mắt quầng đen, miệng, lưỡi khô, khát nước, nhưng không uống nhiều. Nếu giả nhiệt nhiều thì bị lở miệng, lở lưỡi làm ăn uống trở ngại, đau miệng, thắt lưng đau và yếu, chân yếu bất lực, đau, chóng mặt, váng đầu, ù tai, mắt khô và mờ nhất vào buổi chiều, ăn lúc ngon lúc không, mệt mỏi, đau nhức mình,cổ, vai, chân tay, đàn ông xuất tinh sớm, đàn bà lạnh cảm và ra mồ hôi đêm. Lưỡi đỏ và khô. Mạch vi và sác.

Chủ trị: Bổ thận âm, dùng bài Lục Vị.

Ðau lưng do huyết ứ (không thông):

Nếu chúng ta cảm thấy đau lưng ở một nơi cố định và như dùi đâm, khi chúng ta ấn nhẹ lên chỗ đau, bệnh nhân thấy khó chịu, đau là do máu không thông mà gây ra. Có thể do một lý do gì đó, làm cản trở đường đi của máu, gây áp lực tại đó mà đau. Thường hay đau từ L4, 5 tới S1 do ảnh hưởng của thận suy không đủ khí để đẩy huyết di chuyển được bình thường, gây ra huyết ứ làm đau dữ dội, đôi khi không di động được.

Chủ trị: Khử huyết ứ.

Ðau lưng do làm việc nặng nhọc:

Vì làm việc nặng nhọc từ ngày nọ qua ngày kia, làm đĩa đệm bị mòn, gây ra đau nhức cột xương sống.

Chủ trị: Trong trường hợp này nên đổi nghề khác và uống thuốc bổ thận để giúp sinh tủy sống, bồi bổ cho đĩa đêm được bao nhiêu, tốt bấy nhiêu.

Ðau lưng do thoái hóa cột xương sống:

Ðây là nguyên nhân do thận suy, không sinh đủ tủy sống để nuôi khớp xương và đĩa sụn, phần nhiều do người nhiều tuổi bị bệnh này. Ngoài ra cũng do sự không tiết dục lúc còn trẻ, làm thận suy sớm gây ra. Bệnh nhân không đứng thẳng lên được. Giới hạn cử động của lưng bởi đau và nhức những bắp thịt liên hệ tới giây thần kinh từ đốt xương sống ra các tạng phủ. Thường trường hợp này có thể thấy rõ ràng khi chụp phim.

Chủ trị: Bổ thận âm và dương.

Dùng bài Lục vị hoặc Bát Vị.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

MỚI CẬP NHẬT