Friday, March 29, 2024

Ðã đến lúc sửa đổi cách bầu cử tổng thống qua cử tri đoàn?

WASHINGTON (NV)Thống đốc Arizona, bà Jan Brewer, cuối tuần vừa qua nói là chúng ta nên dẹp quách đi cái phương cách bầu cử tổng thống theo thể thức cử tri đoàn như từ trước đến nay.







Ðại cử tri đoàn của tiểu bang Colorado bỏ phiếu bầu tổng thống ngày 15 tháng 12 năm 2008. Cử tri ở đây chuyển từ đỏ qua xanh trong cuộc bầu cử cách đây 4 năm, khi ứng cử viên Barack Obama đoạt được 365 phiếu đại cử tri so với 173 của John McCain. (Hình: John Leyba/AP)


Bà Jan Brewer là một thống đốc Cộng Hòa từng nổi tiếng với việc ký ban hành đạo luật gây nhiều tranh cãi, được coi là khắt khe đối với di dân ở tiểu bang Arizona. Theo lời bà: “Thật đáng thất vọng khi nghĩ rằng trong thực tế chỉ có một số ít tiểu bang thu hút tất cả mọi sự chú ý, vì là nơi quyết định ai sẽ được bầu làm tổng thống”.


Ðây không phải là một ý kiến mới mẻ hay ít thấy, nhưng đặc biệt sau cuộc bầu cử vừa qua, nhiều giới trong đảng Cộng Hòa nêu lại vấn đề này. Rất nhiều người không hiểu rõ và không tán thành hệ thống bầu cử mà các nhà lập quốc đã lập ra và đưa vào Hiến pháp Hoa Kỳ, nhằm quân bình quyền của dân chúng toàn quốc với vai trò của các tiểu bang. Theo họ, bầu tổng thống Hoa Kỳ bằng thể thức trực tiếp căn cứ trên số phiếu của cử tri toàn liên bang đơn giản hơn và hợp lý hơn.


Những người bênh vực hệ thống cử tri đoàn cũng có nhiều lập luận vững chắc, trong đó có một lý lẽ thực dụng nhất. Ðó là tránh khỏi phải có một cuộc bầu cử vòng thứ nhì, như hiện nay ở nhiều nước trên thế giới, nếu không thắng với đa số quá bán (50%). Ví dụ năm 1968 Nixon chỉ chiếm 43% phiếu cử tri toàn quốc nhưng được 301 phiếu đại cử tri (cử tri đoàn) và đắc cử; cũng như vậy Bill Clinton năm 1992 đắc cử với 43% phiếu cử tri và 370 phiếu đại cử tri.


Cũng nên chú ý rằng cuộc bầu cử ngày 6 Tháng Mười Một năm 2012 không đi đến một mâu thuẫn giữa phiếu cử tri toàn quốc và phiếu cử tri đoàn. Obama được 62.2 triệu phiếu cử tri toàn quốc (50.6%), Romney 58.8 triệu (47.8%); Obama chiếm 332 đại cử tri (61.7%), Romney 206 (38.2%). Trong khi đó ở cuộc bầu cử năm 2000 Bush được 50.4 triệu phiếu (47.9%), Gore 50.9 triệu phiếu (48.4%), nhưng Bush đắc cử vì chiếm 271 đại cử tri và Gore chỉ có 266 (1 đại cử tri từ chối bỏ phiếu).


Thật ra chọn phương cách nào cũng có cái hay và cái dở của nó. Nhưng cũng nên nhớ rằng sửa đổi Hiến pháp phải qua những thủ tục ở Quốc Hội và không đơn giản để đi đến kết quả. Năm 2006, một liên minh lưỡng đảng gồm những cựu thành viên Quốc Hội đã mở chiến dịch vận động ở nhiều tiểu bang, khởi đầu từ Illinois, về một dự luật bầu cử đặt trên nguyên tắc “bảo đảm đa số trong cử tri đoàn cũng là đa số phiếu cử tri toàn quốc”. Dự luật này liệu có đủ sức thuyết phục để Quốc Hội đồng ý tu chính Hiến Pháp hay không là điều chưa thể biết.


Tuy nhiên với đảng Cộng Hòa còn có một nan đề khác. Từ mấy chục năm gần đây, đảng này càng ngày càng thấy có vấn đề đối với cử tri đoàn (electoral college) trong bầu cử, bởi lẽ không thích ứng được với tình trạng đổi thay của dân chúng Hoa Kỳ về dân tộc cũng như văn hóa. Hoa Kỳ là một nước của di dân, theo thời gian tỷ lệ dân gốc Âu Châu dần dần giảm, dân gốc Phi Châu gần như không thay đổi, còn dân gốc Nam-Trung Mỹ và Á Châu tăng lên nhanh.


Qua 6 kỳ bầu cử tổng thống gần đây từ 1992, kể cả năm nay, trung bình các ứng cử viên đảng Dân Chủ chiếm được 327 đại cử tri trong khi ứng cử viên đảng Cộng Hòa chỉ chiếm được 210.


Năm 2004, Bush tái đắc cử nhiệm kỳ 2 với số đại cử tri cao nhất của Cộng Hòa là 286, Kerry thất bại nhưng cũng chiếm 252; Clinton năm 1992 đắc cử với 370 rồi tái đắc cử năm 1996 với 379- Bush (bố) và Bob Dole lần lượt chỉ có 168 và 159; Obama năm 2008 chiếm 365 đại cử tri và 2012 chiếm 332 đại cử tri.


Như thế sự sửa đổi hệ thống bầu cử sẽ là nhu cầu cấp thiết đối với đảng Cộng Hòa nếu như đảng này không có những cải cách thích đáng hợp với tình thế mới của công dân Hoa Kỳ. (H.C.)

MỚI CẬP NHẬT