Friday, April 19, 2024

Ánh Sao Rơi – Tưởng Nhớ Duyệt



 Thùy An

     

Từ một mùa khai giảng rất xa, trong sân trường Nữ Tiểu Học Đà Nẵng, có một nữ sinh hồn nhiên năng động, chạy tung tăng khắp nơi, khiến mọi người chú ý. Đó là cô bé lai Pháp rất đẹp, miệng cười có hai răng cửa hơi bị thưa, da trắng, mũi cao, ánh mắt thân thiện. Trường có ba lớp nhất, cô bé học nhất A, tôi nhất B, chưa hề quen nhau.






Năm sau, hai đứa thi đậu vào đệ thất trường Trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng, tình cờ được xếp ngồi cùng bàn, mới biết tên bạn ấy hoàn toàn Việt Nam: Phạm Thị Duyệt. Lớp toàn nữ, phần đông là người Quảng Nam. Tôi không thích tiếng Quảng vì tên tôi thường bị gọi là “Ứa”. Duyệt –cô bạn Huế hiếm hoi, hiền lành, tốt bụng, xử dụng những ngôn từ “rặc” Huế chỉ mình tôi hiểu, điều này khiến chúng tôi xích lại gần nhau hơn.



Lên đệ lục, phân ban Anh –Pháp, nam nữ học chung, chúng tôi vẫn được ngồi cùng, nên tình thân ngày càng sâu đậm. Nhà tôi rất gần trường. Chúng tôi học buổi sáng, nếu chiều có giờ, tôi thường rủ Duyệt về nhà ăn cơm, nghỉ trưa để cùng đi học tiếp. Duyệt hay kể chuyện về Huế cho tôi nghe, về những kỷ niệm thuở ấu thơ, những bà con giòng họ hoàng phái, những người đẹp một thời… Tôi vẫn thường ra Huế thăm ông bà ngoại, các cô dì… nhưng tôi cảm nhận tình yêu Duyệt dành cho Huế nhiều hơn tôi. Không nhớ vào dịp nào, Duyệt đã mua cho tôi bản nhạc Thương Về Xứ Huế với lời đề tặng rất dễ thương.



Duyệt là thành viên trong nhóm bạn thân của tôi, những ngày rảnh rỗi, thường rủ nhau đi dạo bờ sông, lên Ngã Năm ăn chè hay đạp xe ra biển Thanh Bình hóng gió. Cùng học, cùng chơi. Tuổi trăng rằm tươi đẹp biết bao. Chúng tôi không có nhiều kỷ niệm vì Duyệt nghỉ học rất sớm. Duyệt không đến trường nhưng lại tham dự lớp Anh Văn của Hội Việt Mỹ đặt trung tâm tại trường tôi. Chiều chiều, Duyệt thường đi ngang nhà tôi, tươi cười vẫy gọi. Bẳng đi một dạo, không thấy Duyệt nữa, rồi sau đó, tôi nhận được thư Duyệt, báo tin gia đình đã chuyển vô Sài Gòn. Tôi định trả lời thư nhưng rồi quên mất vì bận rộn học hành, thức khuya dậy sớm trước những kỳ thi đang chờ đợi. Tôi mất liên lạc với Duyệt.



Năm Mậu Thân 1968, gia đình tôi chạy vào Sài Gòn lánh nạn. Một buổi sáng, tôi đi lang thang trên đường Lê Lợi thì có tiếng gọi. Cô bạn tôi đang đứng trong một cửa hàng cạnh nhà sách Khai Trí, tóc uốn cao, chiếc áo đầm hoa ôm trọn dáng người phốp pháp, trông Duyệt có da có thịt hơn trước rất nhiều. Vẫn tiếng Huế lảnh lót: “Ái, mi không nhận ra tao hả?” Tôi suýt không nhận ra thiệt, nên giả lả: “Tao cứ tưởng bà đầm xòe mô chớ.” “Mi ở mô? Ghi địa chỉ cho tao.” Nhà tôi ở Phú Nhuận, trong con hẻm quanh co, địa chỉ lộn xộn với ba cái “xuyệt” như mê hồn trận, vậy mà chiều hôm đó, Duyệt vẫn tìm đến tận nơi. Gặp lại nhau giữa đất khách quê người, tình bạn giữa chúng tôi ngày càng mật thiết. Duyệt đã kết hôn, hiện kinh doanh nhiều mặt hàng, cuộc sống khá giả. Nhớ có lần Duyệt vừa cười vừa nhìn sát mặt tôi: “Mi có thấy chi không?” Tôi lắc đầu. “Mi nhìn kỹ đi, tao đã làm lại hai cái răng cửa. Để răng thưa nói không ai tin mi ơi. Nhờ rứa mà tao mới buôn may bán đắt.” Nhưng đến khi Duyệt hùn hạp với người chị họ mở quán bán món Huế trên đường Trần Quang Diệu quận 3 thì vận may không đến, quán vắng khách vì người Nam thích phở, hủ tiếu… hơn bún bò, cơm hến…, thêm nữa, con đường này có quá nhiều hàng ăn, lại nấu ngon hơn nên không cạnh tranh nổi. Sau 75, đất trời đảo lộn, những người có quốc tịch nước ngoài được phép rời khỏi VN. Duyệt cùng chồng con sang Pháp định cư. Lần thứ hai, chúng tôi mất liên lạc.



Qua thế kỷ 21, khi trang Web Một Thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng được thành lập ở hải ngoại, bạn bè biết được tin tức của nhau, thì không bao lâu, tôi nhận được airmail của Duyệt từ Mỹ. Thư kèm theo tấm hình hai đứa chụp năm 1971 trước passage Eden Sài Gòn. Hình lấy liền (polaroid) nên rất mờ và không trung thực. Chỉ có mấy chữ: “Ái ơi, mi còn sống hả?  nghe tin mi vượt biên bị rơi xuống biển, tao khóc hết nước mắt.” Lúc này, tôi quen viết trên vi tính nên in thư ra gửi Duyệt, nó trả lời: “Tao muốn thấy nét chữ của mi như ngày xưa thôi.” Tôi làm biếng viết tay nên thư từ thưa dần, chỉ có điện thoại, lâu lâu Duyệt gọi về nói chuyện cả tiếng đồng hồ. Lần gặp cuối vào năm 2010, khi Duyệt về Việt Nam ăn tết, cùng tôi và các bạn đi Hội Hoa Xuân ở Tao Đàn. Lúc này, tôi đang chờ phỏng vấn định cư. Duyệt nói: “Ở Mỹ, cùng tiểu bang còn khó gặp nhau, huống chi mi ở tiểu bang khác. Thôi, chừ thấy mặt nhau là mừng rồi.”



Đúng như lời cô bạn tôi, hai đứa cùng sống ở Mỹ nhưng chỉ gặp nhau trên điện thoại, chuyện vui ít, chuyện buồn nhiều vì Duyệt bị tiểu đường đã lâu, ngày càng nặng, nên rất bi quan. Rồi suốt một thời gian, tôi không gọi cho Duyệt được nữa. Bất ngờ, Diệp ở Houston báo tin Duyệt đã vào bệnh viện, đang muốn gặp tôi. Gọi nhiều lần mới được. Giọng Duyệt qua điện thoại rất yếu: “Miệng tao lạt quá, ăn chi cũng không thấy ngon.” Khi Thu Hà cho biết Duyệt đã chuyển bệnh viện khác, có số điện thoại mới, nhưng chưa kịp gọi thì Duyệt không chờ tôi nữa. Quỳnh Chi là người báo tin buồn. Xa xôi quá, đành nhờ bạn thay mặt mình đặt vòng hoa và thắp nén nhang trước di ảnh Duyệt. Quỳnh Chi đã gửi cho tôi tấm hình Duyệt “In Memory” được gia đình tặng khi đến viếng lễ tang và viết: “Ái thương, Duyệt mất trong khi ngủ nên nét mặt bạn mình thanh thản, bình yên như đang đi vào mộng.”

… ôi phù du, từng tuổi xuân đã già, một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua…



 Vĩnh biệt.



  TA                                                                                                                                

  Houston 11/ 03/ 2014


[disqus_shortcode_codeable]