Saturday, April 20, 2024

Cô tôi

Nguyễn Long Chiến

Tôi vừa bước qua tuổi 70. Nếu cô tôi còn sống, bà phải ngoài 120 tuổi. Cô là chị kế sinh trước cha tôi trong một gia đình cả thảy bảy anh chị em.

Hình minh hoạ: pexels-anna-tarazevich

Chừng tám tuổi, cô bị phỏng nặng trong một trận cháy, thiêu rụi gần phân nửa những ngôi nhà tranh ở một vùng quê xa tít tắp, sát chân dãy Trường Sơn, tỉnh Quảng Nam, có lẽ trước cả lúc Bảo Đại về nước. Vết phỏng nặng làm biến dạng gương mặt, nhưng không làm cô xấu đi nhờ còn đôi mắt hiền hòa và nụ cười đôn hậu.

Ông nội gả cô về làm dâu một làng quê bên kia sông: Non Tiên – một làng quê có cái tên nên thơ. Ngôi làng xinh đẹp nhờ ở sát chân núi, quanh năm xanh thẳm những tàn cây cao vút, có những căn nhà nho nhỏ xa xa nhìn như trong truyện cổ tích, nằm rải rác dọc theo bờ sông uốn cong. Con sông lượn qua ngôi làng như muốn nấn ná rồi giơ tay chào trước khi quay dòng đổ về phía hạ nguồn; nước sông trong vắt thấy cả cá con bơi lội – một làng quê thanh bình.

Lúc còn nhỏ, mỗi mùa Hè nước cạn, tôi lội bộ qua sông thăm cô thường xuyên. Nhà cô có hai cây ổi ra trái quanh năm, khi chín những quả ổi tròn nho nhỏ có mùi thơm dìu dịu, ruột bên trong thắm màu hồng tươi. Thỉnh thoảng, cô gởi cho tôi mang về cho em bà là cha tôi những túm cá hoặc lươn, gói trong lá chuối xanh hơ qua lửa, bên trong có một ít nước, cột bằng sợi dây tước từ bẹ chuối phơi khô, rất chắc. Những dịp lễ Tết, thôi theo cha qua nhà cô.

Ông không quên bắt tôi bưng theo một thúng nếp chứa đôi ba ô (lít) cho cô nấu xôi. Gia đình cô khó khăn, chồng cô mất sớm, cô phải tần tảo nuôi hai anh tôi. Đó là những năm yên bình nhất ở quê tôi, sau khi nền cộng hòa thành lập được đôi ba năm.

Rồi chiến tranh xuất hiện. Ban đầu là du kích về làng ban đêm, và ban ngày thì lính quận. Sự có mặt của họ như nước với lửa. Hễ có “cách mạng” thì không có “quốc gia.” Không bao giờ họ gặp nhau. Nhưng nếu gặp nhau, lúc đó có máu người đổ, không của bên nầy thì cũng của bên kia.

Tôi gấp rút theo cha mẹ tản cư về Hội An, trước khi Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và chiến tranh bùng nổ. Lý do gia đình phải đi khỏi làng vì tôi có anh ruột là công chức “quốc gia,” ở lại sẽ có nguy cơ bị khó dễ vì là gia đình “ngụy quyền.”

Từ đó, gia đình tôi và gia đình cô không còn liên lạc được với nhau. Hoàn cảnh chiến tranh, việc liên lạc thời đó hết sức khó khăn, con đường non năm mươi cây số từ quê tôi ra Hội An đầy nguy hiểm, luôn có mìn đặt hoặc luôn có đánh nhau.

Chiến tranh chấm dứt, tôi mới được nghe kể về gia đình cô tôi. Con cả của cô làm ấp trưởng và bị “cách mạng” bắt vào rừng trong một trận phục kích ở xóm núi đầu làng. Cô tôi chỉ còn biết nuốt nước mắt vào trong, tuổi cao mà phải phải chăm hai cháu nhỏ con của anh tôi.

Chị dâu tôi thì nay ốm mai đau. Anh tôi biền biệt từ khi bị bắt cho đến khi cô tôi phải tản cư ra Đà Nẵng năm Mậu Thân 1968, dắt theo hai đứa cháu không cha, mẹ chúng lập gia đình khác vì nghĩ chồng đã chết. Một thời gian sau, bà không nuôi nổi buộc phải gởi cháu vào cô nhi viện Hòa Khánh. Cha tôi không giúp gì cô, vì anh ruột tôi-chỗ dựa cho cả gia đình, tử trận một năm trước.

Từ đó cho đến khi cô mất, vài năm sau thì “giải phóng.” Hai đứa cháu mồ côi cha nghe đâu tản lạc không rõ phương nào. Cho đến bây giờ, sau thời gian cất công tìm kiếm, tôi mới gặp lại chúng ở một nơi cách làng quê cô tôi gần ngàn cây số.

Cô mất do già yếu và được chôn ở nghĩa địa Nam Ô, trong thời điểm đói khổ sau 1975, không thân nhân, không ai biết khi có lệnh di dời vì nhà nước quy hoạch. Thân xác cô tôi không rõ đã trôi dạt phương nào.

Cái chết của cô ở tuổi già không thương cảm bằng cái chết của hai anh tôi, sau này nghe kể lại. Cái đói và sốt rét rừng những năm 1960, là nỗi ám ảnh khủng khiếp cho những người bị bắt cùng anh tôi còn sống nhớ lại. Vì quá đói, anh tôi nhiều lần mò ra nơi trồng sắn của trại tù nhổ trộm vào đêm khuya, nhờ thời gian về sau, tù nhân không bị giam giữ khắt nghiệt như lúc ban đầu. Chuyện có lẽ sẽ êm không đến tai cán bộ quản giáo, nếu anh không san sẻ những củ sắn nướng, khi đi lao động bên ngoài với vài người bạn cũng đang rất đói.

Một anh giấu sắn nướng đem về trại để khuya ăn thêm cho đỡ đói và bị bắt quả tang. Tên anh tôi bị khai ra. Họ nhốt riêng anh tôi tách khỏi bạn tù một thời gian, cách ly bí mật. Không rõ ăn uống thế nào hay có bị tra khảo gì không, nhưng khi được trả về trại, thân hình anh rất tiều tụy và anh lặng thinh như người câm dù anh rất thích chuyện trò.

Các bạn tù không hiểu anh tự ý không nói hay bị người ta buộc không cho anh nói. Đói quá sinh liều và rủi ro thay, anh bị bắt lần nữa và cũng là lần cuối cùng. Củ sắn không quan trọng nhưng kỷ luật mới quan trọng. Tù nhân đều được quản tù “quán triệt” rất kỹ, không được ăn cắp, dẫu có đói rã đến chết khi chưa được cấp phần ăn. Muối và sắn luộc là phần ăn thường bữa những năm Mỹ rải chất khai hoang. Những năm ấy, ở tù không ai biết nơi nhốt và cũng không có thăm nuôi như sau này.

Anh tôi được dẫn đi một nơi khác vào một buổi tối, biệt tăm cho đến bây giờ đã gần 60 năm không có một tin tức gì về anh, và không ai biết anh còn sống hay đã chết. Đau đớn khi nhắc tới anh, nhưng tôi càng đau đớn hơn khi nghe kể cái chết của em ruột anh, tức anh Th. của tôi.

Anh Th. đi lính nghĩa quân ngoài quận một vài tháng thì vất súng lại đơn vị, bỏ trốn về nhà, không phải theo “cách mạng” mà theo lời nhắn anh về nhà của cô tôi lúc đó. Cô đang sốt rét và hai đứa cháu – con của người anh ở tù, mẹ chúng đã đi bước khác, đang bị bệnh kiết lỵ.

Anh hốt hoảng không biết phải lo bệnh tình của mẹ và hai đứa trẻ thế nào. Trở ra quận để xin thuốc hay mang mẹ và cháu đi ra đó cũng không được. Vì sợ hãi, anh đã bỏ ngũ.

Hồi đó, dân làng tản mát đi nơi khác. Số ít vô rừng theo “cách mạng,” số đông khác ra khu tạm cư sống lây lất, không có còn ai để giúp đỡ anh trong lúc nguy khốn đó. Anh có một người bạn cùng làng, trước có đi du kích nhưng đã trốn về vì phải ở nhà chăm sóc vợ đang bệnh sốt rét. Hai người rủ nhau đi vòng qua chỗ đóng quân của quận lỵ bằng cách băng rừng, lội qua sông suối, về thị trấn Ái Nghĩa, cách đó chừng hai chục cây số để mua thuốc Tây về chữa những người đang bệnh.

Trên đường đi hay về gì đó, cả hai đều bị bắt khi lọt vào ổ phục kích của lính Nùng, có một vài lính địa phương đi cùng (lính người Nùng tản cư vô Nam, do quân đội Mỹ tuyển dụng và trả lương). Họ trói ké hai người và đem đến một chỗ vắng vẻ để khai thác. Cả hai luôn miệng kêu oan “không phải Việt Cộng.” Những báng súng trường đánh vào lưng, những cú đạp bằng giầy vào ngực.

Bạn anh đau quá khai có đi du kích nhưng giờ không theo nữa. Lời khai không thuyết phục đối với đội lính đã có vài người bị du kích bắn chết một ngày trước đó. Cơn oán hận đã làm họ hóa cuồng, họ không bắn chết bạn anh nhưng xúm nhau đập vào đầu bằng báng súng.

Gương mặt và sọ đầy máu tươi không biết cái nào vỡ vụn. Anh tôi khai không phải là Việt Cộng và đúng là như vậy, nhưng một con dao găm giấu trong người “phòng bị” lúc đi đường là lời tố giác đanh thép nhất. Anh càng kêu oan, toán lính Nùng càng hăng máu đánh, và khi ngất đi không nói được dù chưa chết. Một kẻ trong toán người hung hãn đó đã lấy chiếc dao găm vừa tịch thu, cho vào miệng anh và kéo mạnh đến mang tai cả hai bên. Anh chết không phải vì máu ra từ vết cắt nơi mặt, nhưng chết vì những báng súng phang thẳng vào đầu.

Cô tôi được chính quyền địa phương chỉ chỗ để nhận xác anh về. Người ta kể lại, cô tôi không khóc được nữa; đôi mắt ráo hoảnh và đỏ hoe, bà ngồi xuống bên anh, bàn tay vừa vuốt mặt con, bàn tay kia vừa đan những ngón khô đét vào tóc bết máu của anh. “Về đi con, mẹ nhắn con về mấy hôm rồi, sao con còn nằm đây. Về đi con, về với mẹ, con ơi”…

Thời gian tha phương cầu thực mấy chục năm xa quê nhà sống ở miền Nam, tôi trở về cất công tìm hỏi và được một người đi trong toán lính hay họ nghe kể lại về cái chết của anh tôi cùng người bạn. Khi nghe đến chỗ cô tôi thổn thức “về đi con,” tôi không cầm được nước mắt.

Gia đình cô tôi, chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi hai người con- một người thì xác thân vùi nơi nào không rõ, một người chết thảm chính tay bà chôn, mộ đang còn đây. Hai đứa cháu lưu lạc, tha phương cầu thực và cô tôi, bà không còn trên cõi đời này để thắp cho anh tôi một nén nhang. Và tôi, tôi cũng không biết mộ cô nơi nào để thắp cho bà một nén nhang. Trước ngôi mộ anh Th. con cô, tôi đau đớn gọi thầm trong tâm trí “Cô ơi!”

[disqus_shortcode_codeable]

Ông Phạm Hoài

Ông Nguyễn Chí Thông

Ông Huỳnh Nhâm

Ông Trương Văn Liêu