Thursday, March 28, 2024

Bụi và Rác (Kỳ 21)


Kỳ 21



Chị Tư bán xôi, trốn từ vùng kinh tế mới về, không “hộ khẩu,” sống bất hợp pháp trong một túp lều lưu động. Bảy Thẹo, du đãng chợ Cầu Muối, được thả ra sau ngày Saigon thất thủ, cũng đang chiếm một chỗ trong nghĩa địa của những người sống.


Ðầu hẻm là nhà một ông tên Tòng, sau Ba Mươi Tháng Tư, y sống bằng nghề bán tivi, radio, cát-sét đủ loại. Người ta nói trước Bảy Lăm, y tốt nghiệp đại học khoa học Sài Gòn nhưng sống bằng nghề thi tú tài mướn. Mặc dù chỉ nhận tiền khi nào đương sự có tên trên bảng những thí sinh trúng tuyển, y cũng có một đời sống khá giả. Bây giờ y sống bằng nghề bán chợ trời. Y quen lớn nhiều cán bộ, từ cấp phường đến cấp quận, cấp thành. Y chả có bà con nào làm cách mạng, nhưng y biết cách mua những người cán bộ nào y cần mua, tất nhiên là có giới hạn thôi. Y nói muốn mua cán bộ nào “tôi chỉ cần đến nhà gắn cho hắn một cái tivi hay một máy cát xét bốn loa là xong.” Tòng sống có phần thoải mái hơn xưa và hơn hẳn nhiều người.


Bên cạnh nhà tôi là gia đình chị Tuyết, giáo sư trường Trưng Vương. Anh Bằng chồng chị là giáo sư Ðại Học Khoa Học đi tu nghiệp bên Pháp trước 75 hiện đang làm giấy tờ bảo lãnh cho chị và hai cháu đoàn tụ, chéo nhà tôi là bác Kỳ, công chức Bưu Ðiện hồi hưu, bác Kỳ là người Hà Nội, vào Nam làm việc đâu từ những năm Bốn Lăm, gặp bác gái ở Mỹ Tho. Hai người có hai cậu con trai nói tiếng “Nam rặt,” không pha chút giọng Bắc nào.


Ngay đối diện nhà tôi là gia đình bác Tốt, nhân viên ngân hàng. Tên y như người. Bác Tốt không làm mích lòng bất cứ một ai trong cái xóm nhỏ bé này. Bên cạnh nhà bác Tốt là gia đình ông bà Ngô, chạy từ miền Trung vào. Cũng như bác Kỳ, ông bà Ngô có hai cậu con trai. Cả hai đều học trường Pháp. Ðó là những thanh niên có chí và thuần hậu như cha mẹ. Quỳnh và tôi yêu nhất ông bà Ngô. Chúng tôi thương yêu hai ông bà như cha mẹ. Chúng tôi coi hai cậu trai như hai đứa em ruột mình. Và chúng tôi được che chở đùm bọc như thể mình là những đứa con được nuông chiều, nhưng vì đã lớn, được dựng vợ gả chồng nên phải ra riêng.


Ðó là cái thế giới của Quỳnh từ khi cô về sống với tôi trong cái xóm nghèo nàn ổ chuột ngay giữa thành phố đầy những sự giàu có này. “Em thương cái xóm Mã Lạng này quá!” Nhiều lần Quỳnh nói với tôi khi chúng tôi dự tính dọn đi một nơi khác. Bởi vì mùa mưa Saigon luôn luôn là một cực hình của chúng tôi. Ðang nửa đêm mà Saigon giáng một trận mưa thật to điều đó có nghĩa là cả khu xóm chúng tôi sẽ phải đồng loạt thức dậy, mở toang cửa ra, bước xuống giường và tát nước. Hôm nào đi xi nê, quên bỏ giầy dép lên kệ, mà gặp trận mưa to, coi như bữa đó nhà cửa lềnh bềnh những đồ vật giữa một biển nước. Nhưng mà Quỳnh yêu cái xóm ấy. Tôi cũng vậy. Tôi yêu vô cùng cái khu phố nghèo khốn này. Căn phòng sang trọng trong nhà ông Phan làm sao bằng được căn nhà chung vách chung mái này khi chúng tôi có nhau.


Tôi ôm Quỳnh. Thân thể của một người đàn bà, sau khi sanh nở đứa con đầu lòng, tròn hẳn ra. Quỳnh rúc đầu và ngực tôi:


“Em lo cho anh quá!”


“Ðừng lo! Anh sẽ không làm sao đâu!”


“Em sợ những ngày sắp tới của anh!”


“Bao nhiêu bạn bè của anh, trừ một số đồng nghiệp, còn tất cả đều đã phải đi cải tạo hết. Anh được tự do không bị tù tội như thế này em còn lo sợ gì chớ.” Tôi an ủi Quỳnh.


“Em sợ, dù em không hiểu mình sợ cái gì. Em không biết chính trị, không ưa chính trị, nhưng em biết anh và em, chúng ta không thích hợp với đời sống này, với cái xã hội mới này.”

MỚI CẬP NHẬT