Friday, March 29, 2024

Hai Bà Trưng trong thơ văn

 


Viên Linh


 


Bà Trưng quê ở Châu Phong


Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên


Chị em nặng một lời nguyền


Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân


 


I. Ðó là một đoạn thơ thường thấy nhất viết về hai vị nữ anh thư năm 40 đã chiêu mộ binh mã nổi dậy đánh đuổi thái thú Tô Ðịnh về Tầu, xưng là Trưng Vương, giành quyền tự chủ cho đất nước, trị vì được ba năm, 40-43 sau Tây lịch.









Hình minh họa cảnh Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi Tô Ðịnh năm 40 sau Tây lịch. Nét vẽ Lê Bá Ðảng, Paris, 1952. Tranh tài liệu do Khởi Hành cung cấp.


Từ đó cho đến ngày nay, gần hai ngàn năm sau, dân ta vẫn lấy ngày mồng 6 Tháng Hai làm ngày giỗ Hai Bà. Trong một lịch sử dài như thế, chính sử viết về Hai Bà được truyền lại gồm có những gì? Thơ văn dân gian thì nhiều, song chính sử, chính văn, e rằng chẳng được bao nhiêu. Còn đền thờ Hai Bà thì ở đâu cũng có; nhà văn Trần Ðại Sỹ đi du lịch Quảng Ðông có kể lại với người viết bài này, ông đã thấy Thành Phiên Ngung còn cả chữ ghi trên cổng, và ông được biết có rất nhiều đền miếu thờ Hai Bà Trưng ở vùng phía Nam Quảng Ðông [khiến người ta nghĩ lãnh thổ Lĩnh Nam xưa kia ở rất sâu trong đất Tầu ngày nay]. Ở ngoài Bắc – theo nhà văn sử gia Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1907-1977) – hai nơi thờ chính một là đền thờ Ðồng Nhân ở Hà Nội (hồi 1952 đền được dùng làm trường học, nơi người viết bài này học lớp nhì tiểu học), và một là Miếu Hát, có tấm hoành phi với bốn chữ “Lạc Hùng Chính Thống” ở gian giữa nhà bái đường.


Hoa Bằng viết: “Khác với Ðồng Nhân thờ thần tượng, Miếu Hát này thờ Long bài.” Ông còn chê sách “Khâm định Việt Sử thông giám cương mục” đã không coi là có một Triều đại Trưng Vương, trong khi Trưng Trắc là con gái Lạc hầu, đuổi giặc đô hộ Bắc phương, đã làm lễ tế cáo Trời đất, xưng Vương, là một nước độc lập, thủ đô ở Mê Linh. Ở đền Ðồng Nhân còn cặp ngà voi của Trưng Trắc, còn Miếu Hát ở làng Hát Môn được xây từ “sau thời Mã Viện về Tầu.” Lễ giỗ Hai Bà ở Hát Môn tỉnh Sơn Tây ngày nay diễn ra trong nhiều ngày: 4 Tháng Chín là húy nhật, 24 Tháng Chạp là lễ mộc-dục (tắm gội) ở sông Hát, ngày 5 và 6 Tháng Hai là tiệc thánh (Tạp chí Tri Tân, 1941).


Nếu kể theo biên niên, ta có văn tự về Hai Bà ở các sách như sau:


-Thế kỷ XIV, trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, một tác giả thời Trần.


-Thế kỷ XV, qua Ðại Việt Sử Ký toàn thư do Ngô Sỹ Liên soạn dưới triều Lê Thánh tông, soạn xong năm 1479. Sau đó là những bổ sung, những thơ văn cảm vịnh của danh sĩ từ đời này qua đời khác.


Trong một nghiên cứu đã được công bố trước đại chúng cách đây vài năm, Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát viết rõ trước các cuốn kia, Việt Nam còn một cuốn sử mà ngay cả sử gia Ngô Sĩ Liên cũng không biết, đó là cuốn Ðại Việt Sử Lược. Ông giải thích khi giặc Minh khi vơ vét mọi sách vở, bia đá, bản gỗ có chữ mang về Tầu, đã mang theo cuốn này, cuối cùng năm 1776 nó lọt vào tay vua Càn Long nhà Thanh, và được chép ra, nhưng bỏ đi một chữ trong nhan đề, chỉ còn là “Việt Sử Lược.” Ðó là một bộ Sử Việt viết vào đời Trần mà người Việt đương thời không biết, mãi vài thế kỷ sau mới biết đến tên nó. Tác giả là người có văn phong linh hoạt, và tinh thần rộng mở. Song song với nó là cuốn Thiền Uyển Tập Anh, cả hai viết tương đồng về nhiều sự kiện, và ông Lê Mạnh Thát cho biết: Lĩnh Nam Chích Quái đã viết dựa rất nhiều vào Thiền Uyển Tập Anh, cũng là một cuốn sách của người đời Trần, không những thế, Thiền Uyển Tập Anh được soạn vào năm 1337.


Vậy văn tự chữ nghĩa viết về Hai Bà còn ghi lại được, có thể nói tóm tắt là có từ thế kỷ XIV đến nay. (Trước đó hẳn cũng đã có nhiều, chẳng lẽ một triều đại nhà Lý với một nên văn hóa văn chương rực rỡ hơn 200 năm, từ thế kỷ thứ XI, không có lấy dăm bài thơ về Hai Bà?) Sau đây là những trích dẫn đáng tin để chúng ta có một “chân dung và tiểu sử sơ lược” gần với sự thật nhất về hai vị nữ anh hùng dân tộc.


Lĩnh Nam Chích Quái – tác phẩm thời Trần, trước 1407. Xét quốc sử thì Hai Bà Trưng họ Lạc, người chị tên Trắc, người em tên Nhị, người làng Mê Linh châu Phong, con gái Lạc tướng châu Giao, là vợ Thi Sách ở châu Diên. Bà người hùng dũng, quả quyết. Khi thứ sử châu Giao là Tô Ðịnh tham tàn, lại giết chồng bà, bà cùng với em gái cử binh nổi dậy đánh đuổi quân Tầu. Ðược dân quân các quận Cửu Châ,n Nhật Nam, Hợp Phố nổi lên hưởng ứng, Hai Bà bình định được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Vương, đóng đô ở châu Diên. Tô Ðịnh chạy ra Nam Hải, vua Vũ Ðế nhà Hán được tin, cách chức y, rồi sai hai tướng là Mã Viện, Lưu Long đem đại quân sang đánh Lĩnh Nam. Chiến trận diễn ra ở Lạng Sơn, kéo dài hơn một năm.


Thấy yếu thế, Hai Bà lui quân về bảo vệ Cẩm Khê, cuối cùng bại trận, quân binh tan tác, Hai Bà nhảy xuống Lãng Bạc tự trầm, thân xác trôi về sông Hát. Dân trong vùng thương tiếc lập miếu thờ. Hai bà rất hiển linh, dân chúng nguyện cầu đều được phù trợ. Thời vua Anh Tông nhà Lý trong nước đại hạn, vua truyền Uy Tịnh thiền sư cầu đảo, chỉ trong một ngày mưa xuống chan hòa. Vua nằm ngủ mơ thấy hai người đàn bà đội mũ lá, áo xanh, đai đỏ, cưỡi ngựa sắt bay trong mưa. Vua hỏi thì hai thần nhân trả lời: “Chúng ta là chị em họ Trưng, phụng mệnh Trời làm mưa đây.” Vua nài xin mưa tiếp thêm thì thần nhân giơ tay bảo thôi. Tỉnh dậy nhà vua ra lệnh lập đền thờ, sắc phong hai bà làm Trinh Linh Nhị Trưng phu nhân.” (Truyện 30, Trinh Linh Nhị Trưng Phu Nhân, dựa theo bản dịch của Lê Hữu Mục).


 


II. Hồng Ðức Quốc Âm thi tập


 


Vịnh Hai Bà Trưng


Giúp dân dẹp loạn trả thù mình,


Chị rủ cùng em kết nghĩa binh.


Tô Ðịnh bay hồn vang một trận,


Lĩnh Nam mở cõi vững trăm thành.


Mới dày bảo vị gia ơn trọng,


Ðã đội hoa quan xuống phúc lành.


Còn nước còn non còn miếu mạo,


Nữ trung đệ nhất đấng tài danh.


 


Hồng Ðức Quốc Âm thi tập do vua Lê Thánh Tông sai soạn vào thế kỷ XV. Niên hiệu Hồng Ðức của Thánh Tông bao gồm khoảng thời gian 1470-1497, thơ trong tập này do nhiều người làm, không ghi tên dưới bài, nên không phân biệt được bài nào là của ai. Có nhiều bài xướng họa chung một chủ đề, chia làm 5 môn loại, gồm 283 bài cả thảy: Thiên địa môn, Nhân đạo môn, Phong cảnh môn, Phẩm vật môn và Nhàn ngâm. Các tác giả phần lớn là hội viên Tao Ðàn của Lê Thánh Tông, và thêm nhiều người khác, do đó nghệ thuật chênh lệch, thi ngữ khác biệt, tuy nhiên giá trị của Hồng Ðức Quốc Âm (thơ Nôm) là ở chỗ lòng yêu nước, lòng tự hào của kẻ sĩ đang sống trong một thời đại tự chủ (vừa đuổi được quân đô hộ nhà Minh ra khỏi giang sơn), rõ ràng hơn cả là tập thơ làm bằng tiếng mẹ đẻ.


 


III. Ðại Nam Quốc Sử diễn ca. Truyện lịch sử nước Ðại Nam viết bằng văn vần. Sách do nhiều người soạn kể lại lịch sử từ Họ Hồng Bàng tới Mạc Ðăng Dung, sau Lê Ngô Cát người Hà Ðông sửa lại, và viết thêm đến Lê Chiêu Thống, dài 3774 câu lục bát. Sau Phạm Ðình Toái sửa lại nữa, rút xuống còn 2054 câu, và in ra năm 1871. Bốn câu đầu của đoạn nói về Hai Bà đã được in ở đầu bài. Trong thế kỷ XX có nhiều tác giả làm thơ về Hai Bà, như Dương Bá Trạc, Hoàng Cao Khải,… Kể ra như thế là quá ít; quí bạn đọc nào biết thêm, xin chỉ giáo cho. Ða tạ.


 


Sách báo tham khảo để viết bài này:


1. Ðại Nam Quốc Sử diễn ca, Hoàng Xuân Hãn tựa và bàn, trọn bộ, NXB Trường Thi, Sài Gòn, 1956.


2. Dâng hương Miếu Hát, Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, Tri Tân, 1941.


3. Thiền Uyển tập Anh, Lê Mạnh Thát, NXB Phật học Việt Nam, TP HCM, 1999.


4. Lĩnh Nam Chích Quái, Trần Thế Pháp, Lê Hữu Mục dịch, NXB Trăm Việt, Hoa Kỳ, 1982.


5. Từ điển Văn học bộ mới, Ðỗ Ðức Hiểu chủ biên, NXB Thế Giới, 2003.

MỚI CẬP NHẬT