Thursday, March 28, 2024

Một bài thơ cũ: Nhà thơ Khoa Hữu

Khoa Hữu

Khoa Hữu, tên thật Ngô Đình Khoa, sinh ngày 21 Tháng Tám, 1938, tại Bắc phần. Đào thoát vào Nam Tháng Ba, 1953. Tốt nghiệp Bách Khoa hệ cao đẳng bốn năm. Bị tù chính trị oan, mất sở làm. Sau đó đi dạy tư bốn năm. Đi lính tác chiến 10 năm, bị thương hai lần. Đã đăng thơ và truyện ngắn trên vài tạp chí văn học tại Sài gòn. Đến Tháng Tư, 1975, giải giáp. Trong thời gian tại thế, ông vẫn âm thầm sáng tác, không hợp tác với bất cứ tạp chí, tổ chức văn nghệ nào của chế độ hiện hành.
Nhà thơ Khoa Hữu tạ thế tại Việt Nam vào ngày 5 Tháng Tư, 2012, lúc 4 giờ 30 phút chiều.
Đã xuất bản sau năm 1975:
1/ Tập thơ “Lục Bát” do nhà xuất bản Trình Bày và nhà thơ Diễm Châu ấn hành tại Pháp năm 1994.
2/ Tập thơ “Thơ Khoa Hữu” do tạp chí Văn Học phát hành tại Mỹ.
3/ “Nửa Khuôn Mặt” tập thơ lục bát do Thư Ấn Quán Hoa Kỳ xuất bản 2010
Tập thơ này được sự bảo trợ tài chính của nhà thơ Nguyễn Thanh Châu.
Những tác phẩm đã hoàn tất chờ in:
– “Lời Bạt Một Tác Phẩm” (truyện dài).
– “Những Viên Đạn” (truyện ngắn).
– Tập văn xuôi viết về nhiều tác giả.
– “Lửa” (tập thơ).
Vào cuối thập niên 1960, đơn vị tôi thất trận, bổ sung gần một nửa quân số cấp tiểu đoàn gửi ra trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp. Đoàn xe đi qua nghĩa trang Biên Hòa thấy bức tượng lính dựng trước ngã ba cổng như nhìn theo, mỉm cười.
Vài năm sau đôi lần tôi theo trực thăng chở xác đồng đội hy sinh về nhà vĩnh biệt, khi trở về đơn vị bằng xe Jeep của hậu cứ đón qua đây, bức tượng đá ấy vẫn như nhìn theo, vẫn như mỉm cười.
Năm 1990 tôi viết bài thơ này như những giọt nước mắt tìm thấy từ ký ức và muốn lưu giữ một mình.
Năm 2010 tình cờ được biết tác giả của bức tượng, nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu còn đang sống tại Sài Gòn.
Tôi đăng bài thơ này nghĩ còn kịp để chia sẻ cảm xúc với anh, và với những người bạn chiến đấu khác một thời đã qua đó, đã gặp bức tượng lính hiển hiện cả sự sống và cái chết.
Bức tượng Thương Tiếc của Nguyễn Thanh Thu
Cái chết của một tượng đá
Si Dieu existe, que souhaiteriez vous qu’il vous dise après votre mort.
Tạc mãi đau thương người thành đá
ngồi canh đồng đội đã bao năm
cây súng gác ngang đời không ngủ
chiếc ba lô vai nặng vết hằn.
Người ngồi đó, mở trang bi sử
chiến bào như thấm máu chưa khô
ta ngồi đó xanh hàng bia mộ
áo nhung rêu cũng bạc dấu thù.
Ta muốn hỏi người từ đâu đến
bèo mây hạnh ngộ, có nhớ ta
ta về từ những vùng, khu chiến
bọc kinh hoàng xương mất, để da.
Ta muốn hỏi người, câu sinh tử
mắt trẻ thơ, môi cánh hoa đào
trán cô phụ băng lời tình sử
tóc mẹ già phủ mặt chiêm bao.
Cái chết – những con thiên nga trắng
ngàn năm tuyệt tích trời đông phương
anh hùng mạt lộ, chiến trường tận
đâu trái tim của một gã cuồng?
Đêm thập tự hàng hàng, vấn tội
đồi bạch dương chụm những đầu ma
oán sâu sương khói cao mù núi
sát thời gian, người, đá hay ta.
Mười năm, lại mười năm sống sót
chuyện dữ tan tành, đồng đội đâu
đất nghĩa trang nhớ hoang dại mọc
quê nhà đây, cỏ mới, ngang đầu.
Saigon 1990.

LTS: Nhằm mục đích tạo thêm tình thân ái giữa bạn đọc và tòa soạn, nhật báo Người Việt trân trọng kính mời quý bạn đọc, thân hữu tham gia “Vườn Thơ Người Việt,” bằng tất cả mọi thể loại thơ.

Xin gửi về địa chỉ email: [email protected], hoặc “Vườn Thơ Người Việt,” 14771 Moran Street, Westminster, CA 92683.

Mời độc giả xem phóng sự “Sôi nổi bầu cử tại Little Saigon”

MỚI CẬP NHẬT