Friday, April 26, 2024

Tiếng Việt Dấu Yêu (Kỳ 314)

Hậu duệ Hội Ái Hữu Bắc Ninh Nam California mừng Xuân Mậu Tuất

Các em góp mặt sinh hoạt truyền thống Bắc Ninh trong dịp Tết Mậu Tuất.

Các em chúc Tết và nhận tiền mừng tuổi.
Các em phụ bán vé số.


Học tục ngữ bằng hình ảnh

GS Trần C. Trí

Trang Tiếng Việt Dấu Yêu xin hân hạnh giới thiệu mục Học Tục Ngữ Bằng Hình Ảnh để các em vừa tìm hiểu kho tàng tục ngữ Việt Nam, vừa ôn luyện tiếng Việt và giải trí với những hình ảnh vui đẹp.

“Tục” là thuộc về ngôn ngữ bình dân và “ngữ” là một câu nói. Qua tục ngữ, các em sẽ được dịp học hỏi thêm về văn hoá, luân lý, lịch sử, địa lý, kinh nghiệm dân gian, v.v… được truyền từ đời này sang đời khác ở Việt Nam.

Thông qua việc tìm ra câu tục ngữ dựa theo hình ảnh và phần gợi ý kèm theo, các em sẽ có cơ hội ôn luyện tiếng Việt về nhiều mặt: cấu trúc vần, hệ thống thanh, chính tả, dấu giọng và dấu nguyên âm, từ vựng và cú pháp.

Đây là một trò đố vui khá phổ thông, đã có từ lâu ở Việt Nam. Đối với mỗi hình ảnh, nếu không có phần chú thích kèm theo thì tên gọi của hình ảnh đó cũng chính là một chữ trong câu tục ngữ. Phần nhiều các hình ảnh cần bỏ đi hay thêm vào một số chữ cái, dấu thanh hoặc dấu nguyên âm mới trở thành những chữ trong câu tục ngữ.

Phần giải đáp câu tục ngữ và giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng cũng như ý nghĩa mở rộng của nó được đăng trong kỳ kế tiếp.

Câu đố kỳ này

Giải đáp câu tục ngữ kỳ trước

ĐI MỘT NGÀY ĐÀNG, HỌC MỘT SÀNG KHÔN.

Nghĩa đen: Đi đến những chỗ khác nhau chỉ trong một ngày mà chúng ta đã học thêm được nhiều điều mới lạ trong cuộc sống.

Nghĩa bóng: Du lịch là một trong những cách hữu hiệu giúp chúng ta học hỏi không ngừng.

Ý nghĩa giáo dục và văn hóa: Kiến thức không chỉ đến từ thầy cô, sách vở hay trường lớp. Kiến thức còn được thu thập qua việc du lịch đến những nơi quanh chỗ chúng ta sinh sống và nhiều nơi khác trên thế giới. Qua câu tục ngữ này, chúng ta còn thấy thêm một khía cạnh văn hoá thú vị: Cái “khôn,” hay kiến thức, được đong bằng cái sàng, dụng cụ mà nhà nông thường dùng để đãi lúa gạo. Chi tiết này cho thấy ngày xưa, Việt Nam là một nước chuyên về nông nghiệp. Thơ văn, hội họa, âm nhạc đều chịu ảnh hưởng của cuộc sống làm nông của đa số người dân Việt.



Em viết văn Việt

Những bài viết của học sinh các trường Việt ngữ

1- Nhằm tạo một diễn đàn cho các em tập viết tiếng Việt, Ban Biên Tập trang Tiếng Việt Dấu Yêu kêu gọi quý phụ huynh và quý thầy cô khuyến khích các em viết văn, diễn tả bằng tiếng Việt những cảm nghĩ và ước vọng trong đời sống của các em. Ước mong nơi đây một sân chơi được mở ra và khu vườn văn hóa Việt sẽ được quý phụ huynh và quý thầy cô góp tay vun trồng, khuyến khích.

2- Trong các bài nhận được và chọn để đăng, chúng tôi cố ý giữ nguyên văn những gì các em viết. Vì thế, khi đọc đến những ngôn từ, lỗi chính tả và sai văn phạm, chúng tôi mong được phụ huynh và thầy cô chia sẻ và sửa chữa cho các em tại nhà hay trong lớp học.

3- Tất cả các bài viết dưới dạng MSWord, font Unicode; và hình ảnh dạng .jpg, xin gởi về địa chỉ email: [email protected] (Xin đừng gởi dạng .pdf vì không tiện cho việc layout).

Trân trọng cảm ơn quý vị.

Nguyễn Việt Linh

Em học làm thơ
(Briona  Cao, Lớp Bốn)

Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Nhưng sau Tết em không tươi vì học
Này nhé : Toán,  văn,  tâp đọc,…
Em phải nhét vào trong óc thật nhanh
Nếu không thì  không có A
Em sẽ bị  ba má la, buồn chết
Vậy là ca dao sai bết
Làm sao cho em bớt  mệt, thưa cô



Góc hoạt họa thiếu nhi

Huey Nguyenhuu

LTS: Kính thưa quý phụ huynh, vì bận công việc, kể từ Tháng Tư, 2018, tác giả Huey Nguyenhuu sẽ phải tạm nghỉ một thời gian. Trang Tiếng Việt Dấu Yêu xin cám ơn sự đóng góp những mẩu chuyện hí họa về chú cún con “Boo,” Boo Berry Bandit (BBB) của tác giả. Hẹn ngày gặp lại.

Nguyễn Việt Linh

 



Tâm tình thầy cô

Phụ giúp ba mẹ

Cành Hồng

Năm nay khí hậu thay đổi, dù đã sắp sang Xuân, nhưng trời vẫn lạnh và mưa tầm tã. Tôi co ro trong chiếc áo ấm với cây dù, túi xách và khay bánh, cẩn thận từng bước trong sân trường sũng nước, chậm chậm về lớp. Tôi tưởng tôi là người đến sớm, nhưng trong lớp đã có sáu em. Các em  không chơi ngoài sân và hành lang như mọi khi nhưng không đến nỗi co ro như tôi.

Bé Hồng tươi như hoa đào nũng nịu với tôi: “Cô ơi, hôm nay cho em hai cái bánh!”

(Hằng tuần tôi vẫn có thói quen mua hoặc làm bánh  cho các em đỡ dạ vào giờ chơi)

Tôi hơi ngạc nhiên với đề nghị này, nhưng Hồng tíu tít giải thích ngay:

“Tối qua trời mưa to, nước tràn vào sân trước nhà và khi nước rút, sân nhà em rất bẩn vì lá cây và đất  trong vườn đã theo nước ‘leo’ bám trên sân. Em thấy mẹ đang bận lo thức ăn sáng cho cả nhà, lại còn chuẩn bị cho bé Bảo đến nhà dì Tư (bà ngoại em về Việt Nam ăn Tết chưa sang).”

Ba Hồng đang sửa gì đó  trong nhà  để xe. Em thương mẹ quá, nếu mẹ ra rửa sân thì mẹ sẽ không đủ thời gian ăn sáng (hôm nay mẹ đi làm thêm).

Hồng ra sân, mặc áo len và quàng khăn cổ cẩn thận, em mở vòi nước mà ông hay tưới cây để “tưới” toàn bộ sân trước từ trong ra ngoài. Khi mẹ gọi vào ăn sáng thì sân cũng đã sạch sẽ.

Mẹ hối em phải nhanh vì mẹ không muốn đến sở trễ. Em không kịp ăn sáng vì phải thay quần áo và rửa tay chân trước khi tới trường; và bây giờ em đói meo.

“Theo lệ thường, em có một cái bánh, nhưng hôm nay em  đã làm việc tốt: Giúp  đỡ mẹ và nghe lời cô,  nên em được thưởng thêm một cái bánh ích nhân đậu thật ngon và nóng hổi (theo luật của cô).”

Tôi cười khen em và đồng ý với “đề nghị” của Hồng trong tràng pháo tay của các bạn.

Vậy là Hồng mở khay bánh lấy một cái bánh ăn cho đỡ đói, còn một cái giờ chơi sẽ cùng ăn với cả lớp.



Tâm tình phụ huynh

Những “kẻ lạ mặt” trong ngôn ngữ

Lê Hữu (Phụ huynh sưu tầm) 

– Ai phụ trách khâu ẩm thực?

Câu ấy nghe được trong cuộc họp của các thầy cô giáo ở một trường dạy tiếng Việt cho trẻ em, bàn về việc tổ chức buổi picnic cho thầy cô và phụ huynh học sinh. Xin mạn phép có một hai ý như thế này:

Thứ nhất, câu ấy có sáu chữ thì hết bốn chữ là tiếng Hán-Việt (“phụ trách”, “ẩm thực”). Thứ hai, ba chữ cuối ở trong câu (“khâu”, “ẩm thực”) là những chữ “mới”, du nhập “từ Bắc vô Nam” sau năm 1975.

Giá dụ học sinh nghe được câu ấy bèn giơ tay hỏi cô giáo ở trong lớp:

– “Ẩm thực” là gì thưa cô?

– “Ẩm” là uống, “thực” là ăn. “Ẩm thực” là tiếng Hán-Việt, có nghĩa là “ăn uống.”

– Tiếng Hán-Việt là tiếng gì vậy cô?

– Là tiếng Hán, tức là tiếng Trung Quốc, đọc theo âm Việt.

– Vậy sao mình không nói “ăn uống,” là tiếng của mình, mà lại nói “ẩm thực” thưa cô?

– …

Cô giáo chắc cũng hơi bối rối, và cũng hơi khó trả lời, không lẽ lại nói là “cô cũng không rõ, nhưng nhiều người đều… nói vậy.” Em học sinh ấy nói đúng. Tại sao người Việt ở trong nước, và cả ở ngoài nước, vẫn thích nói “ẩm thực” mà không chịu nói “ăn uống”? Có phải vì nói “ăn uống” nghe phàm tục, nói “ẩm thực” nghe thanh tao và “trí tuệ” (1) hơn chăng? Trước năm 1975, người Việt ở miền Nam Việt Nam không nói “Ai phụ trách khâu ẩm thực?” mà có nhiều cách nói đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, chẳng hạn: “Ai lo vụ ăn uống?,” hoặc “Chuyện ăn uống ai lo?,” hoặc “Thức ăn, thức uống ai lo?”…

Nếu cứ phải vay mượn tiếng Hán-Việt hoặc tiếng nước ngoài trong sinh hoạt hàng ngày, trong lúc kho tàng tiếng Việt của chúng ta không hề thiếu thốn những chữ ấy thì thật khó mà thuyết phục các em tin được rằng “tiếng Việt giàu và đẹp” như chúng ta vẫn tự hào. (Đã gọi là “giàu” thì tại sao lại phải đi vay, đi mượn?!?). Những tiếng Hán-Việt nặng nề và tối tăm ấy hoàn toàn không giúp gì được cho việc “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” mà những người làm công tác giáo dục ở trong nước vẫn hô hào, như là một khẩu hiệu trong số rất nhiều khẩu hiệu thuộc loại “nói mà không làm,” hoặc “nói một đàng làm một nẻo,” hoặc… “nói vậy mà không phải vậy.”

Những chữ nghĩa kiểu ấy khá phổ biến đến mức xâm nhập cả vào các trường dạy tiếng Việt, là nơi dạy học trò nói đúng, viết đúng trong tinh thần “bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc.” Bên dưới là một ít ví dụ, và các đề nghị nói thế nào cho đúng, rõ nghĩa, dễ hiểu và “Việt ngữ” hơn (chỉ là câu mẫu, người đọc có thể cho những câu khác tốt hơn):

– Thay vì nói: “Cô giáo Mỹ Linh đứng lớp Năm,” nên nói: “Cô giáo Mỹ Linh dạy lớp Năm” (không có… đứng, ngồi, nằm, quỳ chi cả).

– Thay vì nói: “Giáo viên cần soạn giáo án trước khi lên lớp,” nên nói: “Thầy cô cần soạn bài giảng trước giờ dạy” (không có… lên, xuống, ra, vào chi cả).

– Thay vì nói: “Phụ huynh đăng ký cho con em học Việt ngữ,” nên nói: “Phụ huynh ghi tên (hay ghi danh) cho con em học tiếng Việt.”

– Thay vì nói: “Các em tiếp thu tương đối chậm,” nên nói: “Các em hiểu chậm.”

– Thay vì nói: “Ban giảng huấn sẽ dự giờ đột xuất các lớp học của giáo viên,” nên nói: “Ban giảng huấn sẽ bất ngờ vào lớp xem thầy cô giảng dạy.”

– Thay vì nói: “Lớp Vỡ Lòng chủ yếu tập trung vào khâu đánh vần,” nên nói: “Lớp Vỡ Lòng cần nhất là dạy các em biết đánh vần.”

– Thay vì nói: “Cô giáo phát hiện em Nga có năng khiếu về môn Văn,” nên nói: “Cô giáo nhận thấy em Nga có khiếu về môn Văn.”

– Thay vì nói: “Học sinh tranh thủ ôn tập trước giờ thi,” nên nói: “Học sinh cố gắng ôn bài trước giờ thi.”

Trên đây chỉ là một ít trong số khá nhiều câu cú, chữ nghĩa nghe “lạ tai,” từ miền Bắc “xâm nhập” vào miền Nam Việt Nam, và “bành trướng” ra tới hải ngoại.

“Tiếng Việt còn, nước Việt còn,” ở đâu ta cũng nghe câu ấy, nhưng chắc không phải là thứ tiếng Việt kỳ quái hoặc “nửa Hán nửa Việt,” chẳng thấy “giàu” cũng chẳng thấy “đẹp,” chẳng thấy “trong” cũng chẳng thấy “sáng” (chỉ thấy… tối mò mò), và chắc cũng không phải là “Tiếng Việt mến yêu” mà chúng ta muốn “bảo tồn và phát huy” cho thế hệ con em mình.

Nói cho ngay, tiếng Việt chắc chắn là phải còn, chứ đâu có dễ gì mất được. Có điều là, đến một lúc nào đó, “tuyệt đại đa số” (1) (hay “tuyệt đại bộ phận” (1) tiếng Việt đều có “chất lượng tối ưu” (1) như thế cả thì cái “còn” ấy kể cũng… ngậm ngùi.

“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…,” mỗi lần nghe câu hát ấy là mỗi lần tôi lại phân vân tự hỏi, “Những ‘kẻ lạ mặt trong ngôn ngữ’ ấy có phải là ‘tiếng nước tôi’ (và những đứa cháu của tôi có phải ‘yêu’ chúng ‘từ khi mới ra đời’)?”

Nếu không, thì chúng phải có một cái tên gì chứ? Tự điển tiếng Việt gần đây vừa có thêm một từ ngữ mới: “tàu lạ,” được định nghĩa là “tàu Trung Quốc.” Để cho dễ gọi, tôi cũng muốn đặt tên cho những “kẻ lạ mặt” ấy là “từ lạ.” Tương tự các biện pháp nhằm đối phó với các tàu lạ, chúng ta cần đề cao cảnh giác để “phát hiện” (1) kịp thời những từ lạ ngấm ngầm lẩn lút, trà trộn, xâm nhập vào phần đất của “Tiếng Việt mến yêu.” Chỉ khi nào tống khứ được những “từ lạ” thổ tả này đi chỗ khác chơi, chúng ta mới mong trả lại sự “trong sáng” cho tiếng Việt.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

MỚI CẬP NHẬT