Thursday, March 28, 2024

‘Chim Sắt UH-1’ Đặng Quỳnh và những lần đổ quân tại Vùng 4 Chiến Thuật

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Đặng Quỳnh, quê Phú Nhuận, Sài Gòn, cựu học sinh Chu Văn An tình nguyện vào Quân Chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa vào Tháng Năm, 1968, là tân sinh viên sĩ quan Khóa 7/68 Không Quân.

Ông tình nguyện vào quân đội theo lời kêu gọi của tất cả quân, binh chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) sau trận chiến Mậu Thân 1968 bùng nổ. Đáp lời sông núi, ông cũng như bao người trai thế hệ tòng quân giúp nước, xếp bút nghiên lên đường chinh chiến vì nhu cầu chiến trường.

Tháng Sáu, 1968, Đặng Quỳnh trong số 255 tân khóa sinh Khóa 7/68 Không Quân được vào quân trường Quang Trung chín tuần, rồi sang quân trường Thủ Đức ba tháng rưỡi để học căn bản quân sự.

Sau đó, 255 tân khóa sinh về trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân tại Tân Sơn Nhất để chờ nhập khóa huấn luyện của Không Quân. Các khóa bay gồm có Khu Trục, C130, L19, Trực Thăng, còn khóa Không Phi Hành thì học về Kỹ Thuật. Trong số 255 khóa sinh có một nửa đi về ngành Không Phi Hành, và một nửa học về Phi Hành tác chiến.

Sau khóa học Anh Ngữ, Đặng Quỳnh chọn ngành Trực Thăng đổ quân và tác chiến. Tháng Mười, 1969 được sang Hoa Kỳ để học bay Trực Thăng UH-1 tại các quân trường Không Quân Hoa Kỳ qua nhiều giai đoạn ở các tiểu bang Texas và Georgia.

Phi công Đặng Quỳnh tại phi trường Sóc Trăng. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

Chiến trường thuộc Vùng 4 Chiến Thuật sôi động mạnh

Tháng Bảy, 1970, tân sĩ quan Không Quân Đặng Quỳnh ra trường. Về nước, bắt thăm đi phục vụ cho các phi đoàn. Ông về đơn vị Phi Đoàn 225 đóng tại Sóc Trăng. Phi đoàn này mới thành lập, gốc từ phi đoàn của Hoa Kỳ mới bàn giao lại cho Không Quân VNCH. Lúc đó, phi đoàn trưởng của Phi Đoàn 225 là Không Quân Thiếu Tá Lê Văn Châu.

Thiếu Úy Đặng Quỳnh vừa về trình diện phi đoàn trưởng, hôm sau thì được lệnh hành quân lập tức. Nhiệm vụ của Đặng Quỳnh là đưa quân chiến đấu của các Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh và Biệt Động Quân vào những trận địa thuộc Vùng 4 Chiến Thuật, Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 đặt tại Cần Thơ. Lúc bấy giờ, Tư Lệnh Quân Khu 4 là Tướng Ngô Quang Trưởng.

Từ năm 1970, các chiến trường thuộc Vùng 4 Chiến Thuật bắt đầu sôi động mạnh, bởi vì các quân địa phương của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam với sự trợ giúp của quân Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập vào miền Tây Nam Phần từ biên giới Việt-Miên, và đường biển.

Ông Quỳnh kể: “Lúc đó tôi mới mang lon thiếu úy, chỉ làm phi công phụ chớ chưa được làm phi công trưởng. Tôi vừa về trình diện phi đoàn trưởng thì đã có lệnh đưa quân của Sư Đoàn 21 vào trận địa tại Sóc Trăng, tàn trận, lại phải bốc quân ta về. Rồi cứ thế, mỗi ngày chúng tôi đều có chuyến đổ quân, bốc quân về và đưa các chiến sĩ bị thương về hậu cứ tại Sóc Trăng hay tại Quân Y Viện nào gần nhất. Sóc Trăng, bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Khánh Hưng, gồm các Chi Khu: Hòa Trị, Kế Sách, Lịch Hội, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Thạnh Trị, Thuận Hòa và Yếu Khu thị xã Khánh Hưng. Chỉ trong vòng một tháng đầu về đơn vị, tôi đã đổ quân của các Sư Đoàn 21 và Biệt Động Quân vào những trận tại Ngã Năm, Long Phú, Kế Sách, Hòa Trị nhiều lần.”

“Chiến trường miền Tây càng ngày thêm ác liệt hơn. Gần như không có ngày nào mà chúng tôi không đổ quân và đưa quân về. Có lúc, vừa đổ quân xong, chúng tôi phải bay trong vòng chiến để tiếp ứng chiến đấu cùng với những anh em chiến sĩ tại mặt đất. Phi hành đoàn của mỗi chiếc trực thăng để chở quân gồm hai phi công và hai xạ thủ đại liên 60. Còn chiếc Gunship thì cũng hai phi công, hai xạ thủ đại liên 6 nòng (Minigun) và được trang bị 14 đạn pháo rocket. Phi đoàn của chúng tôi cũng bị bắn rớt nhiều, có những chiếc bị bắn cháy và nổ tung trên không, phi hành đoàn không ai được sóng sót,” ông nhớ lại.

Phi đoàn 225 đổ Biệt Động Quân tại Bạc Liêu. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

“Khoảng Tháng Mười, 1970, Phi Đoàn 225 gồm sáu chiếc trực thăng chở quân Sư Đoàn 21 và một chiếc Gunship đổ quân xuống khu Hải Yến, Cà Mau. Địch quân khoảng hai đại đội đang chuyển quân đến đánh khu Hải Yến. Sau khi đổ quân xong, một chiếc Gunship nhào xuống bắn yểm trợ cho quân ta, bị Cộng Sản bắn rớt,” ông kể thêm.

Trong thời gian phục vụ tại Quân Khu 4, Phi Công Đặng Quỳnh đã đổ quân VNCH nhiều nhất ở những trận địa thuộc các Tiểu Khu An Xuyên (Cà Mau): Bộ chỉ huy đặt tại thị xã Quản Long, gồm các Chi Khu: Đầm Dơi, Hải Yến, Năm Căn, Sông Đốc, Thới Bình và Yếu Khu thị xã Quảng Long; và Kiên Giang: Bộ chỉ huy đặt tại thị xã Rạch Giá, gồm các Chi Khu: Hà Tiên, Hiếu Lễ, Kiên An, Kiên Bình, Kiên Lương, Kiên Tân, Kiên Thành và Yếu Khu thị xã Rạch Giá. Còn Tiểu Khu Chương Thiện thì Bộ Chỉ Huy đặt tại thị xã Vị Thanh, gồm các Chi Khu: Đức Long, Hưng Long, Kiên Long, Kiên Lương, Kiến Thiện, Long Mỹ và Yếu Khu thị xã Vị Thanh.

Cà Mau và Kiên Giang là hai tiểu khu cập theo bờ biển của Vịnh Thái Lan và những khu rừng tràm dày đặc thuộc vùng U Minh Thượng và U Minh Hạ. Tại nơi này, Việt Cộng thành lập những căn cứ cấp tiểu đoàn trong rừng sâu để làm hậu cần cho quân du kích và quân Cộng Sản Bắc Việt. Tại Chi Khu Hà Tiên, Kiên Giang thì có biên giới Việt-Miên, nơi mà Cộng Quân chuyển quân từ biên giới Hạ Lào xuống tận miền Nam để xâm nhập vào Vùng 4 Chiến Thuật. Vì thế, có khi Phi Đoàn 225 phải đưa những quân tác chiến VNCH đổ quân sang Cambodia để ngăn chận Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập vào Hà Tiên hay Châu Đốc.

Thiếu Úy Quỳnh kể: “Ở Cambodia, đổ quân xong, các phi hành đoàn ít nhất là tám chiếc trực thăng phải đáp xuống các phi trường gần biên giới để ứng chiến. Vì không được rời khỏi tàu suốt cả ngày, hoặc lâu hơn nữa để chờ lệnh đưa quân về, nên phương tiện ăn uống được một chiếc trực thăng khác (gọi là tàu cơm) từ hậu cứ phi đoàn mang thực phẩm đến tiếp tế cho các phi hành đoàn ít nhất là 32 người đang tham chiến. Lý do là vì các chiến sĩ Không Quân của Phi Đoàn 225 đã đóng tiền cơm hằng tháng cho câu lạc bộ tại hậu cứ của phi đoàn. Vì bận công tác, các phi hành đoàn không được về dùng cơm tại câu lạc bộ, nên phi đoàn trưởng cho chiếc (tàu cơm) bay thẳng ra chiến trường. Đôi khi, những phi vụ này cũng để tiếp tế đạn dược cho các chiến sĩ bộ binh đang chiến đấu tại mặt đất.”

Tại Tiểu Khu Kiến Phong, Bộ Chỉ Huy đặt tại Thị xã Cao Lãnh. Phi Đoàn 225 đã có nhiều phi vụ đưa quân Sư Đoàn 9 và Biệt Động Quân tại những địa danh Cao Lãnh, Đồng Tiến, Hồng Ngự, Kiến Văn, Mỹ An. Tại Kiến Tường, Bộ Chỉ Huy đặt tại thị xã Mộc Hóa. Tàu của Đặng Quỳnh từng bị trúng đạn của địch quân tại các mặt trận ở Tuyên Bình, Tuyên Nhơn khi đưa quân của Sư Đoàn 7 ra chiến trường. Hai Tiểu Khu Kiến Phong và Kiến Tường nằm cập theo biên giới của Việt-Miên, nên Cộng Sản cũng thường dùng biên giới này để đưa quân xâm nhập vào miền Tây Nam.

Phi công Đặng Quỳnh tại phi trường Rạch Giá. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

Còn Định Tường là tiểu khu giáp ranh với Kiến Phong, Phi Đoàn 225 cũng đã đổ quân của Sư Đoàn 7 vào những nơi đóng quân của Việt Cộng tại Cai Lậy, Cái Bè, Hậu Mỹ, Sầm Giang.

Hết sang Cambodia diệt Cộng Sản, lại về Việt Nam diệt Cộng Quân 

Cũng trong Tháng Mười, 1970, đơn vị của Đặng Quỳnh gồm hai chiến Gunship và tám chiếc chở quân Sư Đoàn 9 sang Cambodia đổ quân xuống Neak Luong để diệt quân Cộng Sản đang đóng quân để chuẩn bị xâm nhập vào các chi khu Cao Lãnh và Hồng Ngự của Tiểu Khu Kiến Phong.

“Quân Cộng Sản bị các chiến sĩ của Sư Đoàn 9 Bộ Binh tấn công bất ngờ, lớp chết, lớp chạy tán loạn vào đoàn dân cư đang chạy giặc. Đoàn trực thăng của chúng tôi rượt theo chúng nó. Chúng hoảng sợ tách rời ra khỏi đám dân, tìm nơi an toàn để trốn lằn đạn của trực thăng. Chúng tôi rượt theo bắn chết chúng nó rất nhiều, và cũng có một số trốn thoát được vào khu rừng. Chỉ còn một tên Cộng Sản còn sống sót vì sợ chết nên hắn mới nằm sấp xuống. Tàu của tôi đáp xuống, và chính tôi nhảy xuống bắt tên Việt Cộng này lên tàu đưa về để khai thác,” ông kể.

Tại Bạc Liêu, Biệt Động Quân và Sư Đoàn 21 cũng đã đụng độ rất nhiều lần với Việt Cộng tại những khu rừng ở Giá Rai, Phước Long, Vĩnh Châu. Phi Đoàn 225 đã đưa quân của VNCH vào những trận chiến khốc liệt. Tàu của Đặng Quỳnh cũng nhiều lần bị trúng đạn của địch quân tại những địa điểm này.

Ngoài ra, Phi Đoàn 225 còn có những chuyến đưa quân lẻ tẻ tại Chợ Mới, Huệ Đức, Thốt Nốt thuộc Tiểu Khu An Giang; Hòa Đồng, Hòa Lạc, Hòa Tân thuộc Tiểu Khu Gò Công; Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Hàm Luông, Hương Mỹ, Giồng Trôm thuộc Tiểu Khu Kiến Hòa; Đức Thành, Đức Thịnh, Đức Tôn thuộc Tiểu Khu Sa Đéc; và Long Toàn, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm thuộc Tiểu Khu Vĩnh Bình.

Vì đã tham chiến rất nhiều trận ở Vùng 4 Chiến Thuật mỗi ngày, nên Đặng Quỳnh chỉ kể vài trận mà ông đã thoát chết dưới lằn đạn của địch. Trận cuối cùng tại Vùng 4 Chiến Thuật của Đặng Quỳnh là ông đã thoát chết tại Tiểu Khu Phong Dinh, Bộ Chỉ Huy đặt tại thị xã Cần Thơ, gồm các Chi Khu: Châu Thành, Phong Điền, Phong Phú, Phong Thuận, Phụng Hiệp, Thuận Nhơn.

Đặng Quỳnh (đứng, phải) tại Little Saigon. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

Đầu năm 1971, ngay Mùng Hai Tết, Cộng Quân tấn công quận Phụng Hiệp. Theo tin tình báo cho biết, quân Cộng Sản Bắc Việt phối hợp quân địa phương của miền Nam hơn một tiểu đoàn. Ý đồ của Cộng Sản là muốn mở trận lớn để tấn công vào Quân Khu 4. Trong lúc Cộng Quân đang đụng trận với hai đại đội Địa Phương Quân VNCH, thì sáng sớm, Phi Đoàn 225 được lệnh bốc các chiến sĩ Biệt Động Quân xuống tiếp viện cho các chiến sĩ Địa Phương Quân đang đụng lớn với quân cộng sản tại Phụng Hiệp.

Ông Đặng Quỳnh kể: “Từ phi trường Sóc Trăng, toán của chúng tôi chở Biệt Động Quân gồm năm chiếc trực thăng chở quân, hai chiếc Gunship và một chiếc C-n-C của cấp chỉ huy chiến trường. Hai chiếc Gunship vừa bắn yểm trợ cho Địa Phương Quân vừa bắn dọn bãi đáp cho năm chiếc đổ Biệt Động Quân (nhảy trực thăng) xuống ngay chiến trường. Sau đó, bảy chiếc trực thăng chiến đấu của chúng tôi bay lên cao để quan sát và chờ lệnh để tham chiến. Được tin là quân ta đã làm chủ tình hình, Cộng Sản bỏ thây tại mặt trận rất nhiều, và Biệt Động Quân đang lục soát trong khu dân cư để tìm đám tàn quân địch đang lẩn trốn. Chúng tôi được lệnh rời khỏi chiến trường, về hậu cứ để chờ lệnh.”

“Chúng tôi sẵn sàng ứng chiến tại phi trường Sóc Trăng và không được rời khỏi trực thăng cách 100 mét để chờ lệnh đưa quân ta về. Khoảng 6 giờ chiều hôm đó, bảy chiếc trực thăng được lệnh đến điểm bốc các chiến sĩ Biệt Động Quân triệt thoái (rời khỏi),” ông cho biết thêm.

Thiếu Úy Đặng Quỳnh làm phi công phụ cho Phi Công Trưởng Trung Úy Nguyễn Phương Đức đáp bãi chở Biệt Động Quân về.

“Tôi ngồi ghế tay mặt của phòng lái, Trung Úy Đức, phi công chánh ngồi bên trái. Trực thăng của chúng tôi là chiếc cuối cùng bốc các chiến sĩ Biệt Động Quân lên tàu. Tàu vừa rời khỏi mặt đất khoảng 50 thước thì tôi thấy phía dưới có một cái nấp hầm trú ẩn của Cộng Quân hé ra, liền sau đó, một loạt đạn AK từ hầm đó bắn lên chiếc trực thăng của tôi đang đưa quân ta về. Loạt đạn này trúng vào kiếng phía trước nơi tôi ngồi, nhưng lúc đó vì tôi đang ló đầu ra ngoài để quan sát, nên tôi may mắn được thoát chết, trên tàu không có ai bị thương cả. Sau đó, hầm ngụy trang của vài tên tàn quân Cộng Sản cũng lãnh đủ hàng ngàn viên đạn đại liên của trực thăng Phi Đoàn 225. Trận chiến này đã mang lại chiến công lớn cho Biệt Động Quân và Địa Phương Quân tại chi khu Phụng Hiệp,” ông kể.

Chỉ trong vòng tám tháng hành quân tại Vùng 4 Chiến Thuật, Không Quân Đặng Quỳnh đã trên bay trên 160 phi vụ để đổ quân và chiến đấu. Hơn 60 lần tàu bị trúng đạn của địch, nhưng may mắn nhờ đạn không trúng vào máy và cánh quạt, nên trực thăng vẫn còn hoạt động và đưa quân về được an toàn.

Tại Vùng 4, trong vòng sáu tháng thì Đặng Quỳnh đã bay được 800 giờ công tác, theo luật của Không Quân thì phi công phụ chỉ bay đủ 800 giờ thì đạt tiêu chuẩn để trở thành phi công chánh.

Đầu Tháng Tư, 1971, phi công Đặng Quỳnh được lệnh thuyên chuyển ra Đà Nẵng trình diện Phi Đoàn Kingbee 219 để đưa những toán Lôi Hổ của Nha Kỹ Thuật xâm nhập vào vùng đất địch đang đóng quan tại biên giới Hạ Lào. (Lâm Hoài Thạch)

Kỳ cuối: “Chim Sắt Kingbee 219” Đặng Quỳnh sống chết cùng Biệt Kích Lôi Hổ

MỚI CẬP NHẬT