Wednesday, April 24, 2024

Thiếu Tá Lê Quang đánh giặc tới ngày tàn cuộc chiến

Văn Lan/Người Việt

PORTLAND, Oregon (NV) – Sau trận đồi 252 trên lãnh thổ quận Nghĩa Hành giáp ranh với quận Minh Long, ông Lê Quang được thăng cấp Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/5, Sư Đoàn 2 Bộ Binh vào Tháng Mười Một, 1973, lúc ông mới 25 tuổi.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (trái) trao Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương cho Thiếu Tá Lê Quang (thứ hai, phải), Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/5 tại mặt trận Nghĩa Hành, năm 1974. (Hình: Lê Quang cung cấp)

Ngồi tại nhà ở Portland, Oregon, cựu Thiếu Tá Lê Quang kể tiếp với phóng viên nhật báo Người Việt về trận Núi Đầu Tượng và Núi Đánh Khương năm 1974, trận Bàn Quân Suối Đá năm 1975, rồi chuyện đời sau chiến tranh. Mỗi câu chuyện của người sĩ quan Khóa 1/68 trường Trừ Bị Thủ Đức mới hiểu vì sao ông bị Cộng Sản bắt ngồi tù đến 14 năm ở Tiên Lãnh.

Trận Núi Đầu Tượng và Núi Đánh Khương năm 1974

Khoảng Tháng Mười, 1974, khi Cộng Sản đưa Lữ Đoàn 52 vô quyết chiếm quận Nghĩa Hành, nơi có núi Đánh Khương và núi Đầu Tượng là hai cao điểm nằm về hướng Tây Nam quận Nghĩa Hành chừng khoảng 2 cây số. Nếu Nghĩa Hành bị chiếm thì thị xã Quảng Ngãi coi như bị pháo kích dài dài khi Cộng Sản đặt pháo trên hai ngọn núi bắn xuống. Hai núi này là chốt điểm cao độ, Cộng Sản chế ngự trên đó để quan sát toàn tỉnh Quảng Ngãi để báo cáo cho Bộ Binh của họ nằm ở dưới đồng bằng hoạt động.

“Khi Tiểu Đoàn 2/5 tăng phái cho Sư Đoàn 3 ở Quảng Tín, được lệnh vào giải tỏa áp lực tại Nghĩa Hành, chiếm lại núi Đánh Khương và núi Đầu Tượng. Buổi chiều tôi vô làng Nghĩa Hưng, nhờ tin tức dân chúng và Ban 2 Sư Đoàn cho biết tình hình, tối đó tôi cho toán đột kích phía mặt sau sông Vệ, sau lưng núi Đánh Khương, còn bên này tôi đánh lên,” ông Quang kể.

“Tôi xin sư đoàn và trung đoàn cho nới rộng vòng đai và được chấp thuận. Tôi cho một trung đội lội qua sông sau lưng núi Đánh Khương thuộc quận Mộ Đức, khi tới vị trí tôi đưa đại đội đi phía sau tách ra khỏi trung đội đó chứ không đi về phía trước nữa, bởi vì nếu từ dưới làng đánh thẳng lên là coi như đưa mặt cho họ đánh. Khi đột kích từ phía sau lưng núi đánh lên, cả chốt địch hơn 30 tên bị tiêu diệt, nhưng ngược lại bên mình bị vướng mìn bị thương bốn người và chết một,” ông kể tiếp.

“Sau khi vòng đai được mở rộng để tiến lên chiếm lại núi Đầu Tượng là cứ điểm cao nhất ở đó, thường đi từ giữa lên thì an toàn hơn nhưng tôi cho một trung đội cập theo sông Vệ, vòng qua phía Minh Long nằm phía Tây Nam núi Đầu Tượng. Tối hôm sau tôi mới đột kích đúng nơi ấn định, từ duới chân phía sau núi Đầu Tượng tôi tấn công lên. Từ đêm đó đến trưa hôm sau mới lên được tới đỉnh, có năm tên bị tiêu diệt, lấy được một đại liên phòng không cùng một số súng cá nhân, phía dưới thì lực lượng Địa Phương Quân vào giải tỏa những làng trong quận Nghĩa Hành,” ông kể thêm.

Xong trận đó năm 1974, khoảng Tháng Hai ông lại đi ra Quảng Tín, hành quân qua các quận Mộ Đức, Đức Lương, Sa Huỳnh, xong rút về Tam Kỳ. Đến cuối Tháng Hai, 1975, ông ra Quảng Tín trong trận Bàn Quân Suối Đá.

Thiếu Tá Lê Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/5, hình chụp năm 1974. (Hình: Lê Quang cung cấp)

Trận cuối cùng khi tàn cuộc chiến, bị thương ba lần không chết

Khi đụng nhiều trận ở Tiên Phước, Suối Đá, Bàn Quân, Dương Huê, ông Lê Quang bị thương nhiều lần nhưng không chết. Trận cuối cùng ở Tiên Phước, Suối Đá, Bàn Quân là căn cứ hỏa lực của tiểu khu, Tiểu Đoàn 2/5 do Thiếu Tá Lê Quang chỉ huy tăng phái cho Tiểu Đoàn 3/5, cùng với một tiểu đoàn Địa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Tín tăng phái và một đại đội Trinh Sát 5/5.

“Tôi lên giải tỏa Suối Đá xong, tiếp theo giải tỏa an toàn cho Dương Huê, từ đó vô lấy lại căn cứ Bàn Quân là căn cứ hỏa lực của Tiểu Khu Quảng Tín đã bị bỏ lại. Khi chiếm được Dương Huê cũng là lúc tôi bị thương ở tay, phải bàn giao lại cho người phó, tôi chỉ đem theo mấy khẩu cối 81 và khẩu 75 rút lui về phía sau để có thể yểm trợ phía trước nếu bị địch pháo vô,” ông Quang kể.

Nằm ở chốt chận, khi một quả 75 rơi trúng, miểng đạn khiến ông Quang bị thương lần thứ hai nơi bả vai. Ông nằm đó cầm cự hai ngày đêm, đến khi ông điều động rút hết xuống núi thì sáng hôm sau Ban 3 cho biết chỉ còn đủ đạn đánh một ngày đêm nữa thôi.

“Lúc đó tôi muốn chơi sát ván luôn, tôi vừa đi vòng quanh xem lại tình hình thì một quả 75 rơi trúng ngay tảng đá tôi đang đứng, làm tôi bị thương nặng nơi mắt, lủng ruột và cả thân mình đầy mảnh đạn. Đây là lần bị thương thứ ba, nặng nhất suýt chết và tôi ra lệnh không ai được báo là tôi bị thương,” ông Quang cho biết.

“Khuya đó rút đến chỗ an toàn, tôi nghĩ cái chết của mình cũng không có gì quan trọng, nhưng anh em vì thương mà dìu mình đi, nếu bị tổn thất thêm nữa lại càng bi đát hơn. May khi tôi ngồi dựa vào bụi rơm thì nhờ gặp người dân, hai cha con họ bỏ tôi lên võng khẩn cấp chạy qua mấy chốt chặn của Việt Cộng, và nói rằng đưa bà vợ bị thương nặng đi bệnh viện. Lúc đó họ lấy mền trùm tôi lại và máu chảy thấm ướt cả võng xuống đất. Sau đó nhờ Trung Úy Nguyễn Kỷ, phụ tá Ban 4 của trung đoàn chở về trạm xá tiểu khu Quảng Tín,” ông nhớ lại chuyện đã gần nửa thế kỷ.

Ông Quang bồi hồi nhớ lại: “Lúc đó Tư Lệnh Sư Đoàn 2, Thiếu Tướng Trần Văn Nhựt lúc 10 giờ tối khi hay tin tôi bị thương đã bay trực thăng vô trực tiếp chở tôi về bệnh viện Đà Nẵng cấp cứu. Nếu không kịp thì tôi đã chết, đó là đêm 23 Tháng Ba, 1975. Sáng hôm sau mất Tam Kỳ và đó cũng là trận cuối cùng của tôi!”

Cựu Thiếu Tá Lê Quang (trái) bên vị chỉ huy năm xưa, cựu Đại Tá Lê Bá Khiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 4 Sư Đoàn 2 Bộ Binh, trong ngày hội ngộ Sư Đoàn tại Nam California năm 2018. (Hình: Lê Quang cung cấp)

Trở về nhà, bắt đầu đời tù

Ông Lê Quang nằm ở bệnh viện Đà Nẵng đến qua đầu Tháng Năm, 1975, nhờ vợ chồng Đại Tá Lê Bá Khiếu cho tiền khi vô thăm ở bệnh viện Đà Nẵng, ông mới có tiền mướn ghe đi vào Nha Trang để tìm đường vô Tổng Y Viện Cộng Hòa Sài Gòn chữa trị tiếp.

“Đi lang thang nơi bờ sông, tôi còn mặc nguyên bộ đồ bệnh viện, thời may gặp gia đình Bác Sĩ Tùng cho đi theo tới Vũng Tàu, khi tôi vào tới Tổng Y Viện Cộng Hòa Sài Gòn, trình bày bệnh lý của mình, được cho nằm đó cho đến khi được gắn mắt giả,” ông nhớ lại.

“Ngày 5 Tháng Năm, 1975, có hai bộ đội đến bên giường kêu tôi phải về Quảng Ngãi trình diện. Tôi trình bày tình trạng là phải chờ giấy hẹn của bác sĩ đến ngày 10 Tháng Năm để được lắp mắt giả, từ đó hai tên lính theo gót tôi sát, trong khi tôi luôn tính cách tìm đường về miền Tây để trốn thoát,” ông nói thêm.

Ông kể tiếp: “Khi được lắp mắt giả xong, tôi phải trả tiền xe chở hàng cho tôi và cả hai tên lính về Quảng Ngãi. Khi ra tới Tam Quan cách đèo Bình Đê còn hơn 2 cây số, tôi ngồi phía trước chung với tài xế còn hai tên lính ‘hộ tống’ ngồi phía sau khoang chở hàng. Ông tài xế chỉ đường khi tới bến xe Quảng Ngãi, thấy bến xe ôm phải nhảy xuống đi xe đạp ôm trốn về nhà. Vào nhà tôi ăn chưa hết tô mì gói thì đã thấy cả đám lính Việt Cộng bao vây trước sau nhà kêu mở cửa, tôi dứt khoát không mở cửa và bảo nếu muốn gặp tôi thì sáng mai hãy tới.”

“Sáng hôm sau bọn chúng đem xe tới áp tải tôi về xã, từ đó chúng khai thác hỏi cung tôi bằng những trận đòn ác liệt. Từ đó tôi bị đưa đẩy vô nhà tù ‘cải tạo’ suốt 14 năm trong các trại tù Vực Lim, Kỳ Sơn, Tiên Lãnh. Sau khi ra tù, tôi làm đủ thứ nghề, từ việc làm những công trình lắp ghép ở Vũng Tàu, làm xây dựng chợ Bình Long, Chơn Thành, học về nghề xây dựng ở trường Kỹ Thuật Phú Thọ Sài Gòn,” ông kể tiếp.

Được qua Mỹ theo diện H.O., nhưng ông Quang không thể làm được gì vì cơ thể bị đau yếu bệnh tật với nhiều mảnh đạn trong người. “Cũng may là gia đình đoàn tụ, con cái được thành công nơi xứ người. Hạnh phúc nhất là nhờ ơn trên có sức khỏe là tốt rồi. Tuy ở xứ người nhưng tôi vẫn luôn nhớ về đồng đội mình còn ở lại trong nước,” ông nói.

Nói về tình cảm với vị chỉ huy của mình năm xưa, ông Quang bộc bạch: “Về đơn vị Đại Tá Lê Bá Khiếu mấy tháng sau tôi đã lên trung úy, trong khi ông Khiếu ở đơn vị vẫn còn những lúc thăng trầm, do đó tôi nguyện bằng mọi giá phải đánh giặc làm sao cho ông Khiếu mau lên chức mới thỏa lòng.”

Cựu Thiếu Tá Lê Quang (thứ hai, trái) trong ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ tại Vancouver, Washington, năm 2014. (Hình: Lê Quang cung cấp)

“Nhớ nhất là khi tôi bị thương nặng, mấy ngày sau đã thấy Đại Tá Lê Bá Khiếu cùng vợ vào thăm, ông Khiếu rất tình cảm dù là với thượng cấp hay đối với thuộc cấp. Tôi quan niệm ở trong lính, mình luôn là quân nhân gương mẫu, phải thi hành lệnh thượng cấp tối đa và có trách nhiệm với thuộc cấp, và nhờ cảm tình của dân đối với mình, điều đó tôi luôn áp dụng trong suốt thời gian trong quân đội,” ông tiếp.

“Tôi rất trân quý Đại Tá Lê Bá Khiếu, với những kỷ niệm sống chết có nhau từ khi tôi mới về Tiểu Đoàn 2, Sư Đoàn 2 Bộ Binh lúc hãy còn là thiếu úy. Mãi cho đến sau này trong những lúc vào sinh ra tử, tôi với Đại Tá Khiếu phải nói như tình cha con chứ không phải tình huynh đệ chi binh nữa! Ông Khiếu là người chỉ huy ai cũng đều thương quý, từ lương bổng cho lính, cho tới khẩu phần thức ăn, quân trang quân dụng, cả chuyện tình cảm của người lính, ông đều để tâm lo lắng đầy đủ,” ông Lê Quang xúc động nói. (Văn Lan) [qd]

Xem lại kỳ trước: Thiếu Tá Lê Quang và Sư Đoàn 2 Bộ Binh đuổi Việt Công khỏi đồi 252

Thiếu Tá Lê Quang quê gốc Quảng Ngãi

Vào Khóa 1/68 trường Trừ Bị Thủ Đức.

Ra trường về Sư Đoàn 2 Bộ Binh, phụ trách Vùng I Chiến Thuật, Khu 12 chiến thuật gồm các tỉnh Quảng Tín, Quảng Ngãi.

Thuộc Đại Đội Trinh Sát 4, Trung Đoàn 4, Sư Đoàn 2 Bộ Binh.

Cấp bậc cuối cùng Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/5 Sư Đoàn 2 Bộ Binh.

Đánh trận cho đến ngày tàn cuộc chiến.

Trải qua 14 năm tù “cải tạo” ở Tiên Lãnh.

Hiện định cư tại Portland, tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ.

MỚI CẬP NHẬT