Tuesday, April 23, 2024

Tường Linh và những bài thơ ai cũng biết, nhưng không biết tác giả

Trần Yên Hòa

ANAHEIM, California (NV) – Có thể nói (những) người dân xứ Quảng Nam thế hệ 1950, 60, 70 đều biết và thuộc mấy câu thơ sau đây: “Quê hương tôi bên ni đèo Ải/ Nhấp nhô cánh thuyền cửa Đại/ Già nua nóc phố Hội An/ Ngũ Hành Sơn năm cụm ngắm sông Hàn…”

Nhà thơ Tường Linh. (Hình: Quảng Nam)

Nếu có ai hỏi: Có biết tác giả bài thơ ấy là ai không? Sẽ có nhiều người đáp: Không biết.

Nhưng chắc chắn là ai cũng thích mấy câu thơ đó. Câu thơ xác nhận mình là người dân Quảng Nam chính hiệu.

Xin trả lời thay: Tác giả bài thơ đó là Tường Linh.

Nhà thơ Tường Linh có tên khai sinh Nguyễn Linh, sinh ngày 12 Tháng Mười Hai, 1930, tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là Quế Trung, Nông Sơn), tỉnh Quảng Nam. Ông xa quê từ năm 1954, ra sống ở Huế, Quảng Trị. Đến năm 1956 thì vào định cư ở miền Nam, quận Bình Thạnh, Sài Gòn, cho đến ngày ông mất (2021).

Tường Linh sáng tác nhiều từ những năm 1950, nổi tiếng với những bài thơ về tình yêu quê hương đất nước. Ông thuộc lớp các thi sĩ Quảng Nam xuất hiện vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Các tập thơ của Tường Linh đã xuất bản: “Thơ Tập Làm Thuở Nhỏ” (in thạch bản tại Tam Kỳ, 1950); “Mùa Đi” (in thạch bản tại Bồng Sơn, 1953); “Mùa Hoa Cải” (in tại Huế, 1955); “Mây Cố Quận” (nhà xuất bản Tao Đàn, Sài Gòn, 1962); “Nghìn Khuya” (nhà xuất bản Tao Đàn, Sài Gòn, 1965); “Thu Ơi Từ Đó” (nhà xuất bản Tao Đàn, Sài Gòn, 1972); “Giọt Cổ Cầm” (nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998); “Về Hỏi Lại” (nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001); “Thơ Tường Linh Tuyển Tập” (nhà xuất bản Văn Học, 2011). Ông còn tập “Trăng Treo Đầu Súng” khi phục vụ trong Quân Lực VNCH nhưng không thấy ghi trong nhiều bản tiểu sử.

Đọc qua tác phẩm của Tường Linh, ta thấy ông làm thơ và in thơ rất sớm. “Thơ Tập Làm Thuở Nhỏ” ông in thạch bản 1950 tại Tam Kỳ, là năm ông vừa 20 tuổi, trong thời gian đó, in một tập thơ rất là khó khăn, phải in bằng thạch bản. Rồi ba năm sau, 1953, ông lại cho in tập thơ thứ 2, tập “Mùa Đi,” cũng in bằng thạch bản tại Bồng Sơn. Như vậy ta biết ông yêu thơ đến độ nào.

Cuộc đời chao đảo

Tường Linh xa quê từ năm 1954, ra sống ở Huế, Quảng Trị. Đến năm 1956 thì vào ở hẳn tại Sài Gòn.

Ở Sài Gòn, ông gia nhập vào quân đội VNCH, trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, phục vụ ở Cục Tâm Lý Chiến, làm báo Chiến Sĩ Cộng Hòa.

Hồi đó, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị có hai tờ báo chính, đó là tờ Tiền Phong và tờ Chiến Sĩ Cộng Hòa. Ông làm báo Chiến Sĩ Cộng Hòa rất lâu, đến khoảng năm 1972.

Theo nhà thơ Cao Mỵ Nhân thì: “Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị phát giác ra một toán Trí Vận, mà hai nhân vật văn nghệ sĩ quân đội khá tên tuổi là Thượng Sĩ Lưu Nghi (đã xuất bản hai tập tiểu thuyết) và nhà thơ Trung Sĩ Tường Linh, tác giả tập thơ ‘Trăng Treo Đầu Súng’ dẫn đầu danh sách toán Trí Vận, để hỗ trợ cho ‘Phong Trào Hòa Bình Dân Tộc,’ lung lạc các văn nghệ sĩ và trí thức miền Nam, mở đường cho… ‘hòa bình hậu chiến.’ Khi toán Trí Vận bị phát giác, tất nhiên tiếp theo là công việc của Cục An Ninh Quân Đội QLVNCH.”

Vì hoạt động nội tuyến nên Tường Linh bị bắt giam.

Đến năm 1975, Tường Linh được thả ra. Vì ông thuộc “phía bên kia,” nên được chế độ mới ưu đãi lúc đầu, được làm ở hội đồng nhân dân một phường của quận Bình Thạnh, Sài Gòn.

Nhà thơ Cao Mỵ Nhân viết tiếp: “Sau mấy năm theo… giải phóng (!), chẳng có gì hơn ngoài thơ với rượu, và nơi ở Gia Định giờ ẩn ức nghĩa ‘cố hương.’ Tất nhiên rồi, vì Gia Định xưa đã trở thành quận Bình Thạnh nay, mà căn nhà ông đã và đang cư ngụ cùng vợ con, là một ngôi nhà lai kiểu biệt thự, ở đầu đường Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh.”

Nhưng chỉ ba năm sau, theo tác giả Nguyễn Đông Nhật, hoàn cảnh của Tường Linh đã đổi khác: “Gặp anh, ở quận Bình Thạnh. Năm 1998, anh không có chỗ ở, phải dời ra Văn Thánh, giữa độ tuổi 70, giữa chốn ‘Tiếng ếch nhái vẳng từng hồi khoan nhặt/ Tiếng của thời xa vắng ngỡ trong mơ.’ Sau đó, căn nhà mới anh dọn về ở, một ngày cận Tết năm 2001 có diện tích 2.5 m x 8.3 m, nơi mà ‘Phòng khách liên thông với bếp nhà/ Bình hoa đối cảnh với bình ga’”…

Ông sống ở đây đến ngày qua đời, 91 tuổi.

Bằng hữu tổ chức mừng thọ 85 tuổi cho nhà thơ Tường Linh (thứ hai từ trái). (Hình: Quảng Nam)

Tập thơ sau cùng “Thơ Tường Linh Tuyển Tập”

Năm 2011, ông cho xuất bản “Thơ Tường Linh Tuyển Tập” (nhà xuất bản Văn Học) khi nhà thơ đã qua tuổi 80.

Hơn sáu mươi năm làm thơ, đã sống qua hai thế kỷ, Tường Linh chọn 396 bài thơ làm từ hồi những năm 1950 đến sau này (2011), tạo thành tuyển tập trên 672 trang. Với 396 bài thơ những bài viết về quê hương, nhất là quê hương xứ Quảng.

Theo Phan Bá Thụy Dương thì: “Được biết, vì tài chính eo hẹp, nhà thơ Tường Linh chỉ in được một số lượng sách hạn chế, nên không gửi bán rộng khắp, qua hệ thống phát hành của các nhà sách Sài Gòn.”

Sách chỉ gởi cho những thi văn hữu thân thiết mua với giá ủng hộ.

Thơ Tường Linh đã được các nhạc sĩ Anh Việt Thu, Bắc Sơn, Minh Kỳ, Phạm Minh Cảnh, Trầm Tử Thiêng… phổ nhạc. Đó cũng là niềm vui và an ủi cho một đời làm thơ của Tường Linh. [qd]


Bài thơ “Hai Miền Thương” dưới đây ghi lại tác giả Tường Linh ngày đi xa Quảng Nam, đã vào Nam sinh sống (sông Cửu) và từ đó thương nhớ luôn cả hai quê: Quảng Nam và Cửu Long. Nhưng Cửu Long ít nhớ hơn Quảng Nam, ta có thể ghi nhận được là Quảng Nam được ghi lại nhiều địa danh, như đèo Ải, Hải (Hải Vân), cửa Đại, Hội An, Ngũ Hành Sơn, sông Hàn, Đà Nẵng, Nam Ô, Đại Bình, Duy Xuyên, Điện Bàn, Sông Thu, Tiên Đõa, Kiến Tân, Quế Sơn, Đại Lộc, Trà My…

Hai Miền Thương 

Nửa đêm tôi choàng dậy
Tiếc hoài một giấc mơ…
Trời khuya vắng lặng như tờ
Xóm chài thiêm thiếp bên bờ Cửu Long…
Ra đi một sớm mai hồng
Ai thỏ thẻ: trông anh ngày trở lại 

Quê hương tôi bên ni đèo Ải
Nhấp nhô bóng thuyền cửa Đại
Già nua nếp phố Hội An
Ngũ Hành Sơn năm cụm ngắm sông Hàn
Chùa Non Nước trầm tư hương khói quyện
Đêm Đà Nẵng vọng buồn cơn sóng biển
Bún chợ Chùa thương nước mắm Nam Ô
Tôi muốn về Trung Phước giữa mùa ngô
Thăm quê ngoại Đại Bình cam đỏ ối
Sáng Duy Xuyên tơ vàng giăng nghẽn lối
Chiều Điện Bàn xe đạp nước thay mưa 

Sông Thu chẳng thiếu đò đưa
Ngọt khoai Tiên Đõa mát dừa Kiến Tân
Quế Sơn núi liếp mấy vần
Thương lòn bon Đại Lộc nhớ rượu cần Trà My
Trăm người đi vạn người đi
Đưa chân tám hướng còn ghi vết đời 

Thủy triều sông Cửu đầy vơi
Nước tìm biển cả tình người tìm nhau
Hai miền thương một nhịp cầu
Ga xưa còn nhớ con tàu viễn phương
(1964)

Hay như bài thơ “Năm Cụm Núi Ngũ Hành” của Tường Linh được nhạc sĩ Minh Kỳ phổ nhạc thành ca khúc cùng tên. Xin ghi lại toàn bài:

Năm Cụm Núi Ngũ Hành 

Anh thương binh về thăm nguyên quán
Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường
Anh trở lại với bàn tay còn lại
Vẫn vẫy chào Non Nước quê hương 

Quê hương anh
Mây giăng đèo Ải
Chiều ấu thơ êm ả câu hò
Nước mấy nguồn sông hẹn về Cửa Đại
Ngũ Hành Sơn năm cụm núi xanh lơ. 

Anh lớn lên giữa bài ca châu thổ
Những mùa thu ngọt trái nam trân
Biển xa lộng gió
Thuyền lưới đầy khoang cá trắng ngần 

Mẹ thường kể anh nghe
Chuyện mẹ cùng cha
Ngày xưa đôi lứa
Trai lành, gái đảm thương nhau
Bến nước sông sâu
Nhịp cầu, giếng xóm
Cô gái mười lăm hái hoa bắt bướm
Nắng sớm thêm vàng màu áo lụa Duy Xuyên
Cậu trai xóm dưới ngoan hiền
Đêm khuya khoắt học bài bên bếp lửa 

Mẹ già thương hai đứa
Mẹ già cho lấy nhau 

Vài buồng cau, mấy liễn trầu
Đám cưới đi ngang bờ sông hoa gạo đỏ
Biển rộng buồm xa ăm ắp gió
Ngũ Hành năm cụm xanh xanh
Cha mẹ chỉ tay thề với núi:
-Mỗi ngón tay là một cụm Ngũ Hành
Năm cụm núi không thể nào thiếu một
Năm ngón tay không thể chia lìa 

Lời mẹ đều đều. Sương rụng vườn khuya. 

Anh ra đi từ mùa thu quê hương bốc lửa
Rừng xa, xa rồi những lứa nam trân
Mẹ đã già và cha không còn nữa
Mây giăng nhiều trên đỉnh Ải Vân. 

Chiều hôm nay anh trở về nguyên quán
Một bàn tay vĩnh viễn gửi sa trường

Mẹ già đón anh
mừng vui
bỡ ngỡ
Mẹ khóc
mẹ cười
mái tóc rung hoa sương 

Không theo anh về bàn tay năm ngón
Nhưng về theo anh nghìn chiến công
Về theo anh sông đầy mấy ngọn
Mùa vui chim ca, cá trắng, cam hồng
Anh nhìn núi Ngũ Hành năm cụm
Màu núi thêm xanh
Mất bàn tay, còn quê hương thắm thiết
Mỗi ngón tay dâng một cụm Ngũ Hành. 

Niềm vui hiện tại
Bếp ấm ân tình
Anh viết thư cho người yêu bằng tay trái
Đời vẫn xanh và núi vẫn xanh.
(1954)


 

MỚI CẬP NHẬT