Thursday, March 28, 2024

Văn Túy Hồng

Trần Doãn Nho/Người Việt

KENNEDALE, Texas (NV) – Nhà văn Túy Hồng vừa qua đời vào hôm 19 Tháng Bảy, 2020, tại tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ, để lại một niềm luyến tiếc sâu xa trong lòng những người yêu mến văn chương của chị.

Bài viết ngắn này, giới hạn trong việc phân tích qua vài đặc điểm trong cách viết của chị, là một nén hương lòng thắp lên tiễn biệt một nhà văn Việt Nam mà cũng là một người đồng hương tài hoa, xuất sắc.

Nhà văn Túy Hồng và thủ bút. (Hình: Trang mạng Gió-O)

Túy Hồng có biệt tài sử dụng ngôn ngữ Huế, cả phương ngữ lẫn khẩu ngữ, nhiều chỗ rặt cả Huế, nhất là trong phần đối thoại và sử dụng hình thức ví von, có những ví von rất táo bạo, rất bất ngờ với một số lượng khá lớn khiến cho cách viết của chị trở nên phong phú, độc đáo và hấp dẫn. Xin được đề cập đến hai đặc điểm này qua các trích dẫn dưới đây rút ra từ vài tác phẩm của chị: “Tôi Nhìn Tôi Trên Vách,” “Hơi Thở Rướn Cong,” và “Buổi Chiều Nghiêng Không Thẳng, Chiều Tà.”

Ngôn ngữ Huế

Văn chương Túy Hồng dựng nên một chân dung Huế, rất Huế, đọc vào là thấy Huế, đụng chạm Huế không “chạy vào đâu được.” Huế đến nỗi, khi đọc văn chị, nhất là đối với người Huế, ta có cảm giác có thể nghe, có thể sờ, có thể nắm, có thể nhìn, có thể chạm ngay từng tế bào Huế, từng nỗi niềm Huế, từng chân tơ kẽ tóc Huế, từ gia đình ra ngoài xã hội, từ phong tục tập quán cho đến những biến động liên miên ở Huế suốt một thời gian dài, từ đầu thập niên 1960 cho đến ngày chế độ VNCH sụp đổ.

Đọc Túy Hồng là thấy Huế hiện ra ngay lập tức, trực tiếp, tưởng như không phải qua một trung gian nào, kể cả chính ngôn ngữ. Đọc Túy Hồng là tôi có thể hình dung ra tôi, tìm thấy chính tôi và tất cả những quan hệ chằng chịt mà cái thế giới Huế vừa u uẩn vừa nồng nàn, vừa nghiêm cẩn lại vừa hoang đàng, vừa lặng lờ lại vừa dữ dội, sôi động ấy – cái thế giới đã từng nuôi tôi lớn lên một thời. (Mà bây giờ xa khuất. Chao ơi!). Xin đọc vài trích đoạn:

-“Sư cụ ở trên đi xuống hét: ‘Cái thằng thiên tinh dịch vật, không được đánh đũa… người ta kiêng, đũa đánh nhau là người đập lộn. Tụi bay ưng có xích mích hả, tụi bay ưng có chào xáo, ưng có đánh lộn đập bậy à?” (Hơi Thở Rướn Cong).

Nhiều nhóm chữ hay chữ trong câu trên nằm trong cách nói thông thường hằng ngày, một loại khẩu ngữ, ở Huế. “Thiên tinh dịch vật” = du đãng, ba trợn, có thể dùng một nhóm chữ khác cùng một ý: “trời đánh thánh đâm” hay “thiên lôi địa tướng”; “ưng” = muốn, thích, yêu. (ví dụ: Mi ưng thằng nớ rồi phải không? = Con yêu anh chàng đó rồi phải không?).

-“Em hết cả rồi, em phá sản hết trơn hết trụi rồi” (Hơi Thở Rướn Cong). (Hết trơn hết trụi = không còn gì cả).

-“Sao tôi xấu xí thế này, xấu đoản, xấu xa xấu xí” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Xấu đoản (hậu) = quá xấu).

-“Con mần thinh chưa cãi cọ lại gì cả” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Mần thinh = làm thinh, im lặng).

-“Nói tầm bậy tầm bạ hồi nào đâu, nói trúng lỗ rốn cái phóc” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Nói tầm bậy tầm bạ = nói ẩu; nói trúng phóc cái lỗ rốn = nói rất chính xác, nói ngay chóc).

-“Đồn chi mà đồn độc, thấy con gái người ta đẹp rồi đồn độc” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Đồn độc = lời đồn độc địa, ác).

-“Ôi! Những cơn mơ trật bậy trật bạ hết cả” (Hơi Thở Rướn Cong). (Trật bậy trật bạ = trật lất, trật hoàn toàn).

-“Con gái mình sẽ mốc như chanh muối không phơi nắng, sẽ ế rình ra đó không ai thèm lấy…” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Ế rình = rất ế, chẳng ai thèm ngó ngàng đến).

Ví von: “NHƯ” và không “NHƯ”

Ví von là diễn tả một sự vật hay sự kiện bằng cách so sánh nó với một sự vật hay sự kiện khác tương tự hay được cho là tương tự, giúp cho ta dễ hình dung sự vật được mô tả. Trong những trích dẫn sau đây, tôi viết hoa chữ “NHƯ” để nhấn mạnh:

-“Hai vợ chồng cùng gầy nhom một cặp NHƯ cò hương” (Hơi Thở Rướn Cong). (Ví von cái gầy của hai vợ chồng với cái khẳng khiu của hai chân loại một loại cò).

-“Cha Thịnh thật no béo, no béo NHƯ vịt bầu và dáng đi của cha đẹp NHƯ dáng ngựa bước chậm” (Hơi Thở Rướn Cong). (Ví von cái bụng to của ông linh mục với cái bụng núng na núng nính của con vịt bầu).

-“Mi rờ cái mặt của tao mà coi, mịn NHƯ sắn hấp, mát NHƯ bột lọc” (Hơi Thở Rướn Cong). (Ví von cái mịn của da mặt như cái mịn của sắn mới nấu xong, cái mát của da như cái mát của bột sắn).

Những ví von như trên là so sánh hai sự vật cụ thể mà ai cũng có thể chấp nhận và hiểu ngay. Tuy nhiên cũng là sự việc cụ thể nhưng được đẩy đi xa hơn:

-“Học trò của cha Thịnh đứa nào cũng kính trọng cha NHƯ người nước Lỗ tôn thờ Đức Khổng Tử” (Hơi Thở Rướn Cong). (Ví von quan hệ học trò và cha Thịnh với quan hệ người nước Lỗ và Khổng Tử).

-“Buổi sáng dễ dàng qua đi NHƯ người ta ăn hết nửa trái mít” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Ví von buổi sáng với trái mít).

Rõ ràng là hai sự kiện mang ra để ví von rất khác xa nhau về cả bản chất, hình thể và ý niệm, đòi hỏi một kiến thức hay sự tưởng tượng rộng hơn, xa hơn mới hiểu hết dụng ý của tác giả.

Văn Túy Hồng có nhiều và rất nhiều cách viết ví von như vậy mà ta có thể tìm thấy trên bất cứ tác phẩm nào của chị:

-“Nghiễm cười nhạt NHƯ tô canh quên nêm muối” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Ví von nụ cười với tô canh).

-“Tôi cười giòn NHƯ mẩu bánh mì nóng tôi ăn hồi sáng” (Tôi Nhìn Tôi Trên Vách). (Ví von nụ cười với miếng bánh mì nóng).

-“NHƯ một giọng hát ra khỏi điệp khúc buồn, những chữ đang chuốt từ từ bỗng reo rổn rảng” (Hơi Thở Rướn Cong).

-“Bọn con gái sụt sụt làm NHƯ chim bồ câu tranh chỗ ngủ…” (Hơi Thở Rướn Cong).

-“Giọng giảng bài đều và phẳng NHƯ một vòi máy chảy yếu” (Hơi Thở Rướn Cong).

-Tiếng tăm tôi cứ nhẹ nhàng đi lên NHƯ bong bóng khinh khí” (Hơi Thở Rướn Cong).

Những câu văn vừa trích dẫn trên vẫn là so sánh hai sự vật cụ thể, nhưng nếu để ý, chúng cụ thể một cách trừu tượng. Chẳng hạn, “buổi sáng,” tuy là cụ thể, nhưng thật ra là trừu tượng, vì nó ám chỉ thời gian trôi qua; cũng thế, “tôi cười giòn,” “bọn con gái,” “tiếng tăm,” “giọng giảng bài”… cụ thể nhưng bao hàm ý nghĩa trừu tượng hay là ý niệm tổng quát.

Nếu để ý kỹ, chúng ta sẽ thấy tất cả những câu văn ví von ở trên, tác giả đều sử dụng chữ “như.” Nhờ trung gian của chữ này mà ta biết là tác giả đang ví von cái này với cái khác. Có thể nói, chữ “như” đã trở thành một công cụ vạn năng mà Túy Hồng đã vận dụng để tạo nên văn phong riêng biệt và đắc giá của mình.

Tuy nhiên, đoạn văn sau đây cách viết có hơi khác:

-“Em là đàn bà bấy lâu thầy thiếu, em (NHƯ) là xác thịt bấy lâu thầy nhìn, em (NHƯ) là mỡ béo bấy lâu thầy thèm, em (NHƯ) là tên đẹp bấy lâu thầy không gọi, em (NHƯ) là một vấn đề bấy lâu thầy không đặt, em (NHƯ) là nghi vấn bấy lâu thầy không ngờ” (Hơi Thở Rướn Cong).

Những chữ “NHƯ” đặt trong ngoặc đơn là tôi thêm vào, vốn không có trong nguyên bản. Thực ra, không chữ “NHƯ” mà như vẫn có chữ “NHƯ.” Chính sự vắng mặt của chữ “NHƯ” khiến cho văn phong trở nên hoàn toàn trừu tượng và do đó, đa hình ảnh, đa ý, đa nghĩa.

Nhưng dù có “như” hay không “như,” văn ví von của Túy Hồng khiến ta có cảm giác chơi vơi, trôi nổi, chao đảo đến nỗi… chỉ biết “ngậm mà nghe.”

***

Xin kết thúc bài viết này bằng một trích đoạn nói về Sài Gòn:

“Ra đi từ độ Sài Gòn mất tên, người hải ngoại thường xuyên nhớ Sài Gòn, thương tha thiết thủ đô những buổi chiều trời vơi gió. Nắng Sài Gòn nóng nhựa đường xích đạo, và gió hạ Lào thổi qua đùa giỡn những cánh hoa dầu xoay xoay, mây Cửu-Long sà xuống thấp trên đỉnh những cây me cây phượng, hóng chuyện nắng mưa để loan tin thời tiết cho tàu bè chạy ven biển. Tình người Việt kiều càng nôn nao nhớ nhung những quận Ba quận Bảy của Sài Gòn, lòng người Việt kiều càng xốn xang hình ảnh những thôn Thới-tứ, xã Thới-tam, phường Bình Thới Hóc Môn, dạ Việt-kiều càng thương tưởng những buổi sáng sương lam nhẹ rơi khi chân nhẹ bước dọc theo Nguyễn Du Nguyên Hồng Pasteur Nguyễn Đình Chiểu ấm nắng sớm mai, tóc Việt kiều còn ánh lên những hoàng hôn thời tiết thổn thức khi trời chưa tắt nắng để rạo rực nghe vài chiếc lá khô rơi nhẹ lên vai bức tượng trước nhà thờ Đức Bà, trong lúc đâu đó êm đềm tiếng đàn Tây Ban cầm dạo khúc nhạc Bach.”

Hầu như không có chữ “như” nào, nhưng nếu tinh ý, người đọc cũng có thể tìm thấy nó vẫn thấp thoáng đâu đó. Đọc lên, ta cảm thấy chữ Túy Hồng có hơi. Tưởng chừng có thể ngửi có thể nếm có thể thấy có thể nghe Sài Gòn những ngày thân yêu trước khi rơi vào tay Cộng Sản.

Đoạn văn này trích từ một truyện ngắn, với một tựa đề cũng rất “Túy Hồng:” “Buổi Chiều Nghiêng Không Thẳng, Chiều Tà.”

***

Nhà văn Túy Hồng sinh trưởng ở Thừa Thiên-Huế năm 1938. Xuất bản khoảng 20 tác phẩm gồm có truyện ngắn và truyện dài, trong đó, nổi tiếng nhất là “Hơi Thở Rướn Cong,” “Thở Dài,” “Những Sợi Sắc Không,” “Tôi Nhìn Tôi Trên Vách”… Tác phẩm “Những Sợi Sắc Không” đoạt Giải Văn Chương Việt Nam Cộng Hòa năm 1970.

Xin giã biệt chị! (Trần Doãn Nho) [qd]

MỚI CẬP NHẬT