Thursday, March 28, 2024

Bàng bạc phía đầu sông

LTS: Nhật báo Người Việt mở mục “Độc giả viết” nhằm mời gọi quý độc giả “cùng làm báo” với Người Việt, chia sẻ những rung cảm, ý tưởng, quan niệm, hồi ức, kiến thức, kinh nghiệm,… về đời sống và xã hội. Và, biết đâu, đây là cơ hội cho chúng ta, những độc giả, trở thành tác giả. Để tham gia, quý độc giả vui lòng gởi cho Người Việt qua email: [email protected]. (Bài trong mục này không có nhuận bút)

***

Bao miền sông dịu vợi và thầm lặng chảy qua ký ức của tôi, (Hình minh họa: HOANG DINH NAM/AFP via Getty Images)

Vĩnh Thông

Có phải đam mê câu thơ nổi tiếng của Phạm Thiên Thư “Sông này chảy một dòng thôi/ Mây đầu sông thẫm tóc người cuối sông” mà tôi cứ tất tả lên đường, mê mải tìm kiếm những dòng sông phiêu bạt chốn xa xăm. Những nơi đó con người sống như sông, bao dung ôm nước không khen chê hay chọn lựa, và khát khao lãng du với hành trình vô định… Bao miền sông dịu vợi và thầm lặng chảy qua ký ức của tôi, sẽ không thể không có một Tân Châu, mỏm biên giới cô độc cuối đất cùng trời mà cứ bâng khuâng gieo niềm hoài nhớ vào một góc lòng người xa lạ.

Đó là những ngày cuối năm, Tây Nam chỉ hơi se lạnh, chúng tôi thực hiện một chuyến điền dã về thị xã biên giới Tân Châu, tỉnh An Giang. Tân Châu nằm giữa hai dòng sông Tiền và sông Hậu, sông Hậu giáp với thành phố Châu Đốc, sông Tiền giáp với tỉnh Đồng Tháp. Từ Châu Đốc sang Tân Châu phải qua phà Châu Giang. Đứng trên phà từ từ xa bờ, con sóng quấn mình theo sau, ai không khỏi cảm thấy tâm hồn trải rộng ra cùng sông nước. Đằng xa giữa dòng là những cánh lục bình xanh biếc trôi lững lờ, xuồng ghe di chuyển rộn ràng, những hình ảnh đó ghi dấu về một miền quê thanh bình trong lòng những ai lần đầu đặt chân đến.

Trong nay mai, chiếc cầu hiện đại sẽ hoàn thành nối đôi bờ sông Hậu. Không chỉ Tân Châu mà khắp đồng bằng, những chiếc cầu dần được phủ khắp, đẩy hình bóng chuyến phà lùi vào dĩ vãng. Giao thông thuận tiện hơn, nhưng đồng thời ta cũng mất đi một nét văn hóa dễ thương của miền Tây: văn hóa qua phà. Rồi đây, mấy ai nhớ rằng người miền Tây gọi phà là “bắc” bắt nguồn từ chữ “bac” trong tiếng Pháp thời Nam Kỳ là thuộc địa. Tìm đâu hình ảnh đợi phà, để hỏi han nhau, để tình cờ gặp người quen, để mua giúp bà cụ bán xôi hay chị bán đậu phộng… để người với người gắn kết nhau hơn.

Theo tỉnh lộ 953 từ phà Châu Giang đến trung tâm thị xã Tân Châu dài 17 km. Không khí trong lành, làng mạc yên bình, những cánh đồng vàng màu lúa chín đang đợi ngày thu hoạch… là những lời chào mời đầu tiên mà Tân Châu dành cho chúng tôi. Trái với khung cảnh đó, càng gần về trung tâm thị xã, phố phường càng sầm uất. Ngôi chợ mới xây dựng khang trang, sung túc, bắt nhịp với cuộc sống hiện đại mà đô thị trẻ đang chuyển động. Thị xã nổi tiếng với bờ kè ven sông Tiền ôm một đường cong mềm mại đầy quyến rũ mà ai đến Tân Châu đều phải dừng chân nơi nầy. Gió từ bờ sông thổi vào lồng lộng, làm mát lòng du khách đường xa, đánh tan sự oi bức sau thời gian ruổi rong trên đường đầy nắng.

Tân Châu và Châu Đốc xét ra hữu duyên. Khi người Chăm phiêu bạt đến đây, họ đồng thời gọi Mort Chruk (nghĩa là mõm heo) chỉ làng Chăm của mình và cho cả vùng đất đối diện bên kia sông, mà nay là làng Chăm Châu Giang và thành phố Châu Đốc. Mort Chruk bắt nguồn từ Châu Giang rồi bị “đồng hóa” cho Châu Đốc, hay ngược lại? Dẫu sao, chúng vẫn hữu duyên khi cùng mang một cái tên!

Năm 1757, đất Tầm Phong Long được vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn Phước Khoát – mốc cuối cùng trong cuộc Nam tiến trường kỳ của dân tộc Việt, phần lớn Tầm Phong Long là An Giang ngày nay. Tướng Nguyễn Cư Trinh lập ba đạo binh Châu Đốc, Tân Châu và Đông Khẩu. Tân Châu đạo ban đầu đặt tại cù lao Giêng (Chợ Mới, An Giang) sau dời lên Tân Châu, đối diện Châu Đốc đạo bên kia sông – một lần nữa hữu duyên.

Đôi “tình nhân” ấy lại hữu duyên trong bảo vệ Tổ Quốc. Bao lần giặc Xiêm xâm lược biên thùy, Châu Đốc là địa điểm trọng yếu mà ta và địch đều quyết giành kiểm soát. Nhằm giúp quân ta thuận tiện tiếp ứng khi khẩn cấp, năm 1843  vua Thiệu Trị cho đào kinh nối Châu Đốc với Tân Châu, dưới sự chỉ huy của Tuần Phủ Nguyễn Tri Phương và Đốc Bộ Nguyễn Công Nhàn. Kinh ban đầu có tên Long An hà, sau đổi thành Vĩnh An hà, để ghi nhớ sự hợp tác của nhân dân hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long trong quá trình đào kinh (chữ “hà” là sông, không phải tỉnh Hà Tiên như một số tài liệu viết).

Nhà văn Mai Văn Tạo – người con của quê hương An Giang đã có những áng văn đầy cảm xúc: “Kinh Vĩnh Tế như đại trường giang vượt qua ghềnh đá, rừng hoang, gò nổng vươn thẳng tới Hà Tiên. Kinh Vĩnh An nối liền sông Hậu – Sông Tiền cũng đâu phải chuyện ngẫu nhiên… Hai dòng nước Vĩnh Tế, Vĩnh An là đường giao thông cấp báo cứu nguy giữ các thành Hà Tiên, Châu Đốc với các đồn bảo Giang Thành, Lạc Quới, Tân Châu. Mồ hôi và máu của lớp lớp người xưa đã quện lại trên những bờ kinh biêng biếc, trên cánh đồng xanh um rau quả Xuân Hè, vàng rộm lúa Thu. Có thể nào quên màu xanh cây bát ngát, màu lúa vàng xao xuyến hôm nay đã trổi dậy từ những đầm lầy hoang sơ của nột thời xa khốn khó.”

Hơn một thế kỷ rưỡi, kinh Vĩnh An làm tròn trách nhiệm của mình với Tổ Quốc và nhân dân. Không chỉ cung cấp phù sa cho đồng ruộng, thuận tiện giao thương hàng hóa, kinh còn là đường thủy quan trọng về quân sự. Hiện nay đoạn đầu kinh ở trung tâm thị xã Tân Châu đã bị lấp vì ô nhiễm, bia Vĩnh An Hà ghi dấu việc đào kinh cũng bị sạt lở xuống sông Tiền và mất dấu, song hai con đường hai bên bờ kinh vẫn mang tên hai vị tướng lừng danh trong công cuộc bảo vệ và kiến thiết đất An Giang: Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn.

Buổi trưa, rời trung tâm thị xã, chúng tôi vẫn tiếp tục chậm rãi theo tỉnh lộ 953, qua phà Tân An để tìm về xã biên giới Vĩnh Xương. Trên đường, những nữ sinh tan học về với cánh áo dài trong trắng tinh nghịch bay bay trong nắng nhẹ cuối năm, càng như tô đậm thêm nét thùy mỵ của vùng đất nầy. Càng về hướng Bắc, cánh đồng càng trải ra bạt ngàn, từng đàn cò đáp xuống mặt ruộng trắng một góc trời biên tái. Nước mới rút nên mặt ruộng còn đầy phù sa, những người dân đang chuẩn bị cho mùa vụ sắp tới.

Tìm hiểu đôi nét văn hóa ở Vĩnh Xương, không thể bỏ qua chùa Bửu Sơn Kỳ Hương – một trong những điểm tựa tinh thần hiếm hoi của cư dân biên giới. Năm 1941, ông Phạm Thanh Quang – một cư sĩ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đến Vĩnh Xương truyền đạo và lập chùa bằng tre lá, năm 1945 chùa được mang tên Bửu Sơn Thiền Lâm tự. Ông mất năm 1947, từ đó đồ đệ là ông Trần Văn Soái (thầy Bảy) tiếp nối. Năm 2008, chùa được trùng tu khang trang như hiện nay. Chánh điện chùa thờ trần điều đắp nổi bốn chữ Hán “Bửu Sơn Kỳ Hương,” phía sau có mộ của ông Phạm Thanh Quang và ông Trần Văn Soái.

Tân Châu có đường biên giới dài hơn 6 km với tỉnh Kandal-Cambodia, thuận lợi cả đường thủy lẫn đường bộ trong phát triển kinh tế biên giới, đặc biệt là có cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương. Mặc dù, hiện nay vẫn còn tồn tại không ít khó khăn, song tin chắc rằng nay mai Vĩnh Xương sẽ được phát huy hết tiềm năng kinh tế của mình, đóng góp vào sự phát triển chung của tỉnh An Giang. Làm sao không tin điều đó khi vùng đất nầy mang tên Vĩnh Xương: mãi mãi thịnh vượng!

Sông Tiền từ xã Vĩnh Xương chảy dài xuống trung tâm thị xã Tân Châu, dù mang bộ mặt hào phóng của sông nước Tây Nam, nhưng cũng như bao con sông xa xăm cuối trời Tổ Quốc – vẫn ẩn hiện nét hoang dại, bí hiểm. Chúng thôi thúc chúng tôi đi tìm! Tìm nét đẹp của sông, hay thực ra là tìm nét đẹp của người. Con sông sẽ mãi chỉ là tạo vật của tự nhiên nếu không có tính nhân sinh.

“Chất người” đó làm sản phẩm đơn thuần tự nhiên khoác lên mình chiếc áo the mang tên văn hóa. Nét đẹp của miền sông Tân Châu, đâu thể thiếu những nét đẹp nhân văn mà cộng đồng dân cư lập dựng, để mỏm đất xa xôi phía đầu sông Tiền mãi neo vào lòng người niềm khắc khoải khôn nguôi.

MỚI CẬP NHẬT