Saturday, April 27, 2024

Mũ Nâu Trần Thy Vân tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút nơi hải ngoại

Văn Lan/Người Việt

HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, “Đại Lộ Kinh Hoàng” là một địa danh kinh hoàng theo đúng nghĩa của nó, với hàng chục ngàn thường dân vô tội đã chết thảm vì những trận pháo kích của Cộng Sản.

Sau những trận tấn công của Việt Cộng bằng pháo kích dữ dội ngày đêm vào các tỉnh địa đầu, từ căn cứ Ái Tử, phía Bắc sông Thạch Hãn, do bị những trận tàn sát tập thể năm Mậu Thân 1968 ở Huế ám ảnh, người dân đã bỏ chạy loạn.

Biệt Động Quân ghi chiến sử trận đánh Cầu Bến Đá 

Ngồi trong căn nhà ở Huntington Beach, California, Mũ Nâu Trần Thy Vân kể tiếp với phóng viên nhật báo Người Việt về trận đánh Cầu Bến Đá.

Ông kể, từ Quảng Trị vào Nam, cả dòng người gồng gánh tháo chạy, người dân, binh lính, các loại xe quân sự, xe đò, chen chúc nhau kẹt cứng trên quốc lộ 1, để rồi làm mồi ngon cho những trận đạn pháo Cộng Sản bắn đuổi theo.

Ông nhớ lại: “Khi ấy Quảng Trị đã thất thủ, dân chúng và binh sĩ đều bỏ lại Quảng Trị sau lưng, theo Quốc Lộ 1 chạy về Huế, Đà Nẵng. Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn còn đầy đủ quân số, từ hướng Tây nhà thờ La Vang nhắm hướng Đông kéo ra. Trên đường gần tới Cầu Bến Đá chúng tôi dừng lại để phá hủy tất cả xe Jeep của Tiểu Đoàn 21, riêng Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chúng tôi tiến về Cầu Bến Đá, cách đó hơn 200 mét, đã bị đại đội C7 thuộc Trung Đoàn K8 Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt chiếm cứ. Mục đích của chúng là chận đường của dân quân VNCH đang rút chạy về phía Nam.”

Thương binh Trần Thy Vân trước khi rời Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, Tháng Ba, 1975. (Hình: Trần Thy Vân cung cấp)

“Lúc đó chúng tôi sôi máu lên vì thấy đồng bào và thương binh đồng đội của mình bị đạn pháo chết quá nhiều, sau khi nhận lệnh của Thiếu Tá Quách Thưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân, bằng mọi giá phải tiêu diệt địch đang chiếm giữ cây cầu. Sau khi yêu cầu dân chúng hai bên đường lui về sau xa hơn 200 mét để tránh thương vong, chúng tôi xông thẳng vào địch quân đóng ngay trên cầu. Có một khẩu cối 60 ly nhưng vì quá gần không xài được, lúc đó tất cả hỏa lực súng trường chúng tôi đều khai hỏa, cùng lựu đạn nổ vang trời. Trong chiến trận, hỏa lực bên nào mạnh hơn sẽ thắng, bọn Việt Cộng bị đánh chịu không nổi, trước khi bỏ chạy vô núi, chúng giật mìn sập cầu,” ông Vân kể.

“Chiếc cầu sập làm tình hình càng bi thảm hơn, khi dòng người dừng lại không tiến cũng không lùi được, bị pháo binh Việt Cộng tàn sát vô kể, hiện nay sách vở đã viết lại rất đầy đủ chuyện này. Và Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân là đơn vị đã giao chiến với Đại Đội C7 Trung Đoàn K8/ Sư Đoàn 304 Cộng Sản lần cuối cùng trong trận đánh tại Cầu Bến Đá trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ năm 1972,” ông kể tiếp.

Ông Vân cho biết Cầu Bến Đá với hai bờ sông thẳng đứng, không có bờ dốc thoai thoải như các bờ sông khác, thành ra khi cầu bị sập, không ai có thể qua được bờ bên kia, người dân, cả những xe GMC quân đội chở thương bệnh binh từ bệnh viện Quảng Trị về cũng không qua được, làm chết thêm một số thương bệnh binh nữa.

“Sau đó Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chúng tôi phải kéo quân dẫn hàng trăm ngàn người đi thẳng ra hướng Đông, qua cánh đồng ruộng về phía bờ biển, trước khi gặp sông Mỹ Chánh về phía Nam, lại bị Hải Quân của phe ta từ biển bắn đại bác vô vì tưởng lầm là Việt Cộng, làm chết thêm một số dân chúng đi theo. Tới bờ sông Mỹ Chánh là 2 giờ khuya, phải tạm dừng quân chờ trời sáng, lại kéo ngược trở ra Quốc Lộ 1, qua cầu Mỹ Chánh do Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ, phía sau là dòng người chạy theo chúng tôi để về Huế, Đà Nẵng,” ông nói.

Bị thương, cụt hai chân 

Sau trận tái chiếm Sa Huỳnh vào Tháng Hai, 1973, Việt Cộng vẫn tái diễn trò lấn đất giành dân, cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng khắp vùng quê quanh tỉnh Quảng Ngãi.

Đầu Tháng Ba, 1974, Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân ở Đà Nẵng trở lại đổ quân xuống vùng đất thênh thang phía Đông quận Mộ Đức, hướng Nam tỉnh lỵ.

Ông Trần Thy Vân kể lại trận tái chiếm Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, và trận đánh tại Cầu Bến Đá trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” năm 1972. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân do Đại Đội Trưởng, Trung Úy Trần Thy Vân trách nhiệm càn quét các nhóm du kích đang hoạt động mạnh tại Đức Lương, Đức Quang và các xóm liên ranh. Sau trận tái chiếm Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, không có trận đánh lớn nào xảy ra, Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chỉ hành quân tảo thanh Việt Cộng lấn đất giành dân, tháo gỡ cờ Mặt Trận Giải Phóng, hoặc nằm giữ an ninh trên các khu đồi núi.

Ông Vân cho hay, lần đó vào xóm, rất dè dặt vì sợ mìn bẫy, rủi ro có thể bị thiệt hại nặng, nên ông không cho anh em đi theo đông, kể cả toán Thám Báo đi trước cũng không, chỉ có ông và Thượng Sĩ Nguyễn Văn Thiệp, thường vụ Đại Đội, cùng đi vào xóm.

“Vậy mà cũng không tránh khỏi, vừa vào trong khu vườn đầy cỏ dại, chính tôi đạp phải trái mìn nội hóa khá lớn, nổ tung như đại bác 105 ly. Thượng Sĩ Thiệp bị gãy một chân, còn tôi hai chân sụp xuống giữa một hố sâu to bằng cái nia, tuy không giập nát nhưng máu ra nhiều ở hai mắt cá, cơ thể nóng ran như lửa đốt. Tôi bảo anh em ở ngoài hết, đề phòng địch lợi dụng tấn công, và có thể còn mìn bẫy ở đâu đó nữa, chỉ có y tá và hai người lính thân cận vào băng bó,” ông nhớ lại.

“Sau đó xe cứu thương chở ra bệnh viện Duy Tân Đà Nẵng, Thượng Sĩ Thiệp mất một chân, còn tôi bị mất hai chân lần đầu từ mắt cá, sau đó bị cụt cả hai chân trên đầu gối lần hai, vì nhiễm trùng quá nặng,” ông cười buồn.

Nói tới đây, ông Vân đọc câu thơ “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai về) do Vương Hàn (687-726) làm ra năm 713 khi ông bị triều đình nhà Đường đày ra Lương Châu do tính bộc trực của mình, khi kể lại khúc phim thật ngắn nhưng ảnh hưởng đến suốt cuộc đời chinh chiến của mình. Ông cười nói: “Người xưa đã bảo chinh chiến xưa nay mấy ai về, vậy mà mình còn được trở về là may mắn quá rồi!”

Năm 1975, khi Cộng Sản tràn ngập Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, chĩa súng đuổi hết các thương binh miền Nam ra đường. Trừ những người không đi được nằm tại chỗ, còn lại kẻ thì xe lăn, người chống nạng, có người mang bịch máu ngang bụng, đi vất vưởng, lang thang như những hồn ma bóng quế.

Rời Bệnh Viện Đà Nẵng vào Tháng Ba, 1975, ông Trần Thy Vân đưa cả gia đình lên Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, kiếm miếng đất nhỏ, khai là binh nhì lính bộ binh bị cụt chân, nay làm ruộng rẫy kiếm sống, đó là lần thứ nhất có chỗ ở ổn định.

Với tính lạc quan, ông Vân nói: “Với hai chân cụt quá đầu gối, tôi phải bò lết ngoài đồng suốt ngày, trồng rau củ cho bà vợ bán ngoài chợ kiếm sống, còn nuôi heo thêm để nuôi mấy đứa nhỏ. Khi rảnh viết lại những gì cần phải viết, cũng may tuy thân thể không toàn vẹn nhưng cái đầu vẫn còn minh mẫn để viết lách là tốt rồi!”

Trang trong của quyển sách “The Black Tigers – Rangers of the Second Indochina War” có đoạn giới thiệu về Trung Úy Biệt Động Quân Trần Thy Vân (trái) và trang giới thiệu Binh Chủng Biệt Động Quân Quân Lực VNCH. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Gặp lại kẻ thù xưa trong trận Cầu Bến Đá, buộc phải dời chỗ ở 

Vùng cao nguyên Lâm Đồng coi như là nơi tạm yên cho người cựu sĩ quan Biệt Động Quân khi cuộc sống dần thích nghi, mọi người trong xóm quen thuộc với gia đình anh thương binh hiền lành, chỉ biết lo làm ăn.

Mọi chuyện trở nên ly kỳ khi có một đại đội Cộng Sản đóng gần đó, trong những lúc rảnh rỗi họ thường đến ghé nhà ông Vân chơi, và ông rất ngạc nhiên khi thấy trên cánh tay của những người lính Việt Cộng, ai cũng có xăm hàng số 13/12/72, khi hỏi ra mới biết chính đó là ngày họ bị Biệt Động Quân VNCH pháo kích nặng nề trong một trận đánh gần chân núi Trường Sơn.

Ông Thy Vân kể tiếp: “Khi những người Cộng Sản kể chuyện trận pháo kích này, tôi bèn hỏi tới. Nghe họ kể về trận đánh trùng khớp với trận đánh của mình, tôi bèn lên tiếng xác nhận câu chuyện là có thật và cho biết chính tôi là đại đội trưởng Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân trong trận pháo kích ấy, về sau là chỉ huy trận đánh Cầu Bến Đá trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ năm 1972. Lúc đó ông Nguyễn Văn Đường đang chỉ huy đại đội đóng quân gần nhà tôi, cũng chính là đại đội trưởng Đại Đội C7/K8, thú nhận rằng trong trận Cầu Bến Đá năm 1972 bị Biệt Động Quân đánh nặng quá, đại đội của ông chết gần chết, chỉ còn 9 ‘mống.’”

Thấy ông Đường, người chỉ huy phía bên kia nói sự thật, ông Thy Vân bèn hỏi: “Vậy khi anh rút lui bỏ chạy, vì sao lại phải giựt mìn sập cầu Bến Đá, để bao nhiêu người dân vô tội phải chết oan ức như vậy! Anh Đường trả lời đó là lệnh trên, phải thi hành.”

Ông cũng nói với ông Đường: “Chúng tôi cũng có lệnh trên là buông súng, phải thi hành. Tôi nói như vậy để người lính bên kia hiểu rằng người lính VNCH thi hành lệnh trên mà buông súng chứ không phải vì thua trận. Nếu không vì lệnh trên, chúng tôi sẽ đánh tới chết mới thôi.”

Lần thứ hai phải đổi chỗ ở khi ông Vân bị lộ tung tích là sĩ quan Biệt Động Quân, nhà cầm quyền địa phương đuổi về nguyên quán. Không dám trở về nguyên quán, ông Vân đưa cả gia đình về Định Quán, ở gần khu chợ Phú Lộc để sinh sống qua ngày. Bà xã thì buôn bán nhỏ ở chợ, còn ông làm nghề chuyên viết đơn cho bà con xin phép mua bán ở chợ. Ở đó sau hai năm thì ông bị lộ tông tích, bị yêu cầu hồi hương.

Lần thứ ba ông đưa gia đình về Nhà Bè gần Sài Gòn, sống nương nhờ nhà người anh nuôi, sinh sống bằng nghề xay bột. Khoảng một năm sau có người bạn mới quen, tổ chức vượt biên, cho cả gia đình ông đi không lấy tiền. Ông Vân quyết định chỉ đem thằng con mới 11 tuổi đi theo, với suy nghĩ nếu có kẹt bị bắt thì còn có người ở ngoài lo tiếp tế được, hoặc nếu chết thì chỉ có hai cha con, còn nếu đi thoát được, ông sẽ bảo lãnh cả nhà.

“Vậy mà chuyến đi thành công, được tàu Mỹ vớt đưa vô đảo ở Thái Lan. Vì tôi có giấy tờ sĩ quan mang theo, hơn nữa lại tốt nghiệp thủ khoa Khóa 2 Reconnaissance, từng nhảy Viễn Thám cho Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, lại còn là trung đội trưởng Recon cho Sư Đoàn đồng minh này. Sau 57 ngày ở đảo, hai cha con được đến Hoa Kỳ, sau đó tôi bảo lãnh cho vợ con qua Mỹ, gia đình đoàn tụ. Nhờ ơn trên hiện nay con cái đều lớn, học hành đỗ đạt, có công ăn việc làm hết rồi,” ông Trần Thy Vân nói.

Thương binh Trần Thy Vân luôn sát cánh cùng đồng bào trong những cuộc biểu tình chống Cộng Sản tại Little Saigon. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút 

Ngày xưa ông Trần Thy Vân chống Cộng Sản bằng vũ khí trên chiến trường, và đã để lại nửa phần thân thể trên quê mẹ cho lý tưởng tự do. Nay ông vẫn tiếp tục chiến đấu nơi hải ngoại qua những thể loại văn, thơ, dùng ngòi bút để chuyển đi những tư tưởng văn học nhưng tràn đầy khí thế đấu tranh chống Cộng Sản.

Dù đã hơn gần nửa thế kỷ giã từ vũ khí, người chiến sĩ Biệt Động Quân năm xưa vẫn hiên ngang chiến đấu như thuở nào nơi hải ngoại, với ông, mỗi con chữ là một viên đạn bốc lửa, những bài viết đều nói lên sự thật, không thêu dệt, nồng nàn tình yêu đất nước, luôn đấu tranh cho một tương lai tươi sáng trên quê hương Việt Nam.

Ông đã xuất bản hai tác phẩm “Anh Hùng Bạt Mạng” (truyện dài, tái bản lần thứ 4) và “Tiếng Hờn Chân Mây” (truyện dài, tái bản lần thứ 1).

Ông dự định sẽ in “Rừng Vang Biển Động” (truyện ngắn) và “Sa Mù Tuổi Ngọc” (thơ người lính trận).

Mũ Nâu Trần Thy Vân sinh ngày 31 Tháng Mười Hai, 1944, tại Phan Rang, Ninh Thuận. Nguyên quán Hòa Vang, Quảng Nam.

Trước 1975, đỗ Tú Tài 2, cựu học sinh các trường Phan Thanh Giản Đà Nẵng, Bồ Đề, Quốc Học Huế, Duy Tân Phan Rang. Có thơ đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Năm, Phụ Nữ Ngày Mai, Tiếng Vang. Bắt đầu làm thơ năm 18 tuổi.

Năm 1966, tình nguyện nhập ngũ, Khóa 22 Sĩ Quan Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức.

Năm 1970, đỗ thủ khoa Khóa 2 Reconnaissance do Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đào tạo tại Đà Nẵng. Trung đội trưởng Recon cho Sư Đoàn đồng minh này.

Chín năm Biệt Động dự nhiều cuộc hành quân vùng I, II, và hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào. Nhận 18 huy chương Anh Dũng Bội Tinh gồm 1 Đồng, 1 Bạc, 10 Ngôi Sao Vàng, 4 Nhành Dương Liễu là loại tuyên dương cấp quân đội, và hai Chiến Thương Bội Tinh Ngôi Sao Đỏ.

Chức vụ sau cùng là trung úy Đại Đội Trưởng 1/21 Biệt Động Quân. Bị thương lần thứ hai cụt hai chân nơi chiến trường miền Trung, Tháng Ba, 1974.

Thành viên sáng lập các Hội Thương Phế Binh, Biệt Động Quân và Hội Tù Nhân Chính Trị là các đoàn thể đầu tiên tại Nam California Hoa Kỳ, 1985. Đã gởi 98 chiếc xe lăn tay cùng quà cáp về giúp các thương phế binh Quân Lực VNCH trong nước từ 1984.

Hội viên Hội International-PEN (Poets, Essayists and Novelists – Tổ Chức Văn Bút Quốc Tế). Phó chủ tịch II Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại 2001-2003. Chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Nam California ba nhiệm kỳ 2000-2002, 2002-2004, 2007-2010. Tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế London, Anh, 2001. Trưởng ban tổ chức Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Kỳ 6, 2003, tại California. (Văn Lan)

Xem lại kỳ trước: Mũ Nâu Trần Thy Vân một thời ‘Anh Hùng Bạt Mạng’

MỚI CẬP NHẬT