Thursday, March 28, 2024

Quân Báo Vũ Uyên Giang cứu phi công Lý Tống bị giam trong trại Aran Jail Thái Lan

Văn Lan/Người Việt

ATLANTA, Georgia (NV) – Vũ Uyên Giang tức Nguyễn Quang Vinh, cựu ký giả tại Sài Gòn nhưng rồi ông xin gia nhập vào ngành Quân Báo sau khi tốt nghiệp Khóa 6/68 Thủ Đức. Tháng Sáu, 1972, tại chiến trường Tây Ninh, ông Vinh bị thương ở quận Khiêm Hanh. Năm 1973 ông xin giải ngũ, cấp bậc cuối cùng là trung úy.

Sau ngày mất nước năm 1975, ông Vinh phải đi “trình diện” và được cấp giấy miễn đi “học tập cải tạo” vì đã giải ngũ năm 1973, nên ở nhà. Nhưng sau đó ông lại bị bắt vì lý do là “chuẩn úy cố vấn nhân dân tự vệ” trong khu cư xá Ngân Hàng Quốc Gia Nhà Bè.

Trốn tù “cải tạo,” vượt biển, làm việc tại Tòa Đại Sứ Mỹ trên đất Thái

Ông bị đưa vào trại Thành Ông Năm, Hóc Môn, chuyển sang trại T3 vì khai là sĩ quan văn thư. “Việt Cộng gọi quân bưu, tức người đưa thư,” ông nói và kể ông ở đó đến cuối năm 1975 thì bị đưa ra đảo Phú Quốc. Khi quân Cambodia đánh vô đảo, ông lại bị đưa vào đất liền, nhốt ở trại Long Giao.

Đầu năm 1981 ông Vinh bị giam ở trại Suối Máu. Lợi dụng đêm tối, ông chui qua ống cống từ nhà bếp ra tới ngoài mương, đón xe lam từ Biên Hòa về Sài Gòn. Cũng may ông gặp được người tài xế tốt bụng là lính VNCH chở về.

Sau đó ông làm họa sĩ trong Xưởng Phim Tổng Hợp Thành Phố, được vài tháng sau thì bị lộ tung tích, ông phải thay đổi chỗ ở liên tục cho đến khi vượt biên.

Chuyến đi từ Cà Mau ông bị chủ ghe lừa mất sạch tiền và bị hải tặc tấn công ba lần nữa, cướp sạch trên biển không còn gì. Rồi may mắn ông cũng đến được Thái Lan, chuyển vào trại Songkhla.

“Ngay lập tức, tôi viết thư cho sếp của mình là ông Walter McIntosh, Đệ Tam Tham Vụ tại Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok, và được đem về làm sĩ quan an ninh tại đó, với nhiệm vụ thanh lọc người trong các trại tị nạn được phép đi định cư ở các nước. Từ đây có nhiều việc phải làm, ghi lại nhiều kỷ niệm nhất trong đời khi tôi đã làm việc đúng với lương tâm và nghề nghiệp của mình để giúp những người tị nạn được mau chóng đi định cư,” ông Vinh kể.

Thư của ông Lê Văn Tống, tức Lý Tống, gửi cho ông Nguyễn Quang Vinh từ trại Galang, Indonesia, 1983. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp)

Cứu phi công Lý Tống bị giam

Từ năm 1980-1983 có nhiều trại tị nạn được lập ra trên đất Thái Lan để tập trung khoảng 300,000 người Việt vượt biển hoặc vượt thoát bằng đường bộ trốn chạy Cộng Sản, nếu tính cả người tị nạn Lào và Cambodia thì con số này còn cao hơn nhiều.

Là viên chức thuộc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bangkok, Thái Lan, ông Vinh, tên Mỹ là Victor, năm 1982 được lệnh đến vùng biên giới quận lỵ Aran Prathet, thuộc tỉnh Prachin Buri nằm về phía Đông Bắc Thái Lan. Tại đây, nhiệm vụ của ông là thanh lọc một số bộ đội Việt Cộng mới bị bắt trong các trận đánh với quân đội Thái, hoặc lực lượng Việt Cộng đào ngũ bỏ đơn vị trốn sang Thái Lan, hay bị bắt ngoài chiến trường khi đánh vào Cambodia. Tất cả đều bị giữ trong nhà giam của đơn vị 506 Tình Báo Biên Giới thuộc Quân Đội Hoàng Gia Thái Lan do Đại Tá Tong Den làm chỉ huy trưởng. Tại đây ông Vinh làm việc chung với sếp Larry, người ở Bangkok, và Thomy.

Thomy tên thật là Thạch Thom, người Việt gốc Cambodia, cựu đại úy phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I VNCH ở Đà Nẵng. Sau năm 1975, ông Thomy cũng bị đi tù “cải tạo” một thời gian dài. Sau khi ra tù, ông Thomy vượt biên tìm tự do qua ngã Cambodia năm 1980. Khi tới Thái Lan, ông Thomy được làm việc tại văn phòng của đơn vị 506 cho đến khi gặp ông Vinh năm 1982.

Có lần ông Thomy hỏi ông Vinh có biết một trung úy phi công VNCH hiện đang bị giam trong trại Aran Jail, không được tiếp xúc với bất cứ ai khoảng chín tháng nay, vì người Thái cho rằng trung úy phi công là gián điệp cho Cộng Sản Việt Nam nên biệt giam ở khu đặc biệt, bị “đeo kiềng” (cùm chân trong vòng có đeo một cục sắt rất nặng) 24 trên 24 giờ.

Ông Thomy cho biết người phi công này trong hồ sơ lý lịch chỉ vỏn vẹn có tên, cấp bậc nhưng không có số quân. Kết quả sưu tra từ Washington gửi về báo rằng “Trong Quân Lực VNCH và Không Quân VNCH không có ông đại úy nào tên Lý Tống mà không có số quân.”

“Tôi xem qua Bản Cung Từ Tù Binh do đơn vị 506 thiết lập, dịch sang tiếng Anh thì thấy quả đúng như vậy, có bút phê bằng tiếng Thái của Đại Tá Tong Den. Tôi suy nghĩ bằng mọi cách phải cứu người này, qua sự quen biết với nhiều sếp lớn của mình ở Bangkok mới được,” ông Vinh cho hay.

Thư tri ân của ông Lý Tống gửi cho ông Nguyễn Quang Vinh khi ở trại Phanom Samet, Thái Lan. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp)

Lúc đó đa số bộ đội Việt Cộng bỏ ngũ bị giam ở trại đều thuộc thành phần con em miền Nam có cha anh bị tù “cải tạo.” Sau 1975 khi bị bắt đi nghĩa vụ quân sự, sang đến vùng biên giới Thái-Miên, các bộ đội này đã đào ngũ xin tị nạn ở Thái với hy vọng sẽ được các nước tự do cho định cư.

“Trong việc thanh lọc bộ đội, sau khi thẩm vấn Hạ Sĩ Bùi Văn Tranh, thuộc đơn vị súng cối 82 ly của Sư Đoàn 5 Việt Cộng (công trường 5) trú đóng tại Sisophon, tôi nhờ anh ta mang về trại giam một lá thư căn dặn thật kỹ là phải đưa tận tay Lý Tống, yêu cầu Tống viết một bản lý lịch đầy đủ chi tiết, xong giao lại cho Tranh chuyển lại cho tôi, nhất là phải tuyệt đối giữ kín không để người Thái biết tôi đang tìm cách cứu Tống,” ông Vinh kể.

“Hôm sau tôi nhận được thư của Lý Tống nhờ Tranh bí mật mang ra, với bản lý lịch đầy đủ của Tống. Cẩn thận hơn nữa, tôi nhờ các sếp lớn của tôi tại Tòa Đại Sứ Mỹ tại Bangkok, cả vị tướng chỉ huy trưởng Quân Báo Thái Lan can thiệp xuống trại 506 của Đại Tá Tong Den để xin một hình chụp của Lý Tống. Đích thân tôi cầm tấm hình này đến các trại tị nạn Sikiew, Phanat Nikhom để hỏi, nơi có những bạn học thời học sinh, hoặc nhiều quân nhân VNCH vượt biên ở trong trại tị nạn, hoặc bạn cùng tù, cùng khóa Không Quân học bên Mỹ. Mọi người đều xác nhận Lý Tống chính là Lê Văn Tống, trung úy phi công hoa tiêu A.37 trong Không Quân VNCH,” ông Vinh kể thêm.

Ông Vinh thở phào nhẹ nhõm nói: “Tất cả hồ sơ lý lịch của Lý Tống được hoàn tất với chứng từ của các nhân chứng, gửi qua văn phòng Di Trú Bangkok, cơ quan JVA, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Thái, Đơn Vị 309 Quân Báo Thái. Coi như đi gần tới đích rồi.”

Khi về tới Bangkok, ông Vinh nhận được bản kết quả sưu tra từ Washington cho thấy lý lịch Lê Văn Tống đúng 100%. Nhưng một chuyện phức tạp khác lại xảy ra. “Thay vì chuyển Lý Tống qua trại Phanat Nikhom để làm thủ tục định cư như lời hứa, Đại Tá Tong Den lại tráo đổi giấy tờ và đưa Lý Tống qua trại Phnom Samet thuộc quyền kiểm soát của quân kháng chiến Miên, định mượn tay họ giết Tống, vì với tính bướng bỉnh, cứng đầu như Tống rất dễ bị những người kháng chiến Miên sát hại,” ông Vinh nhớ lại.

“Tôi gọi điện thoại khắp nơi để khiếu nại về trường hợp của Tống, về sự vô kỷ luật của Đại Tá Tong Den, nhưng chẳng ai quan tâm, phần lúc đó tôi bận bù đầu suốt ngày để phỏng vấn và thanh lọc người đi theo chương trình ODP và con lai, mỗi ngày khoảng 300 hồ sơ. Càng lúc càng lo lắng bồn chồn thấp thỏm không yên cho trường hợp của Tống,” ông Vinh nói.

Ông Vinh kể tiếp: “Giữa Tháng Hai, 1983, khi đang ăn sáng để chuẩn bị đi làm, tôi đã nhảy nhỏm người lên khi đọc bài viết trên tờ Bangkok Post, với tựa đề ‘Vietnamese Refugee Flees To Singapore the Hard Way’ của Barry Wain. Bài này được đăng trên tờ The Asian Wall Street Journal và tờ Bangkok Post đăng lại.”

“Bài báo như có luồng điện làm tê cứng cả người, nỗi mừng vui choáng ngợp khiến tôi vụng về luống cuống, vội gọi điện thoại thông báo cho mấy người cùng làm trong Tòa Đại Sứ mà tôi đã từng kể cho họ nghe về Tống trong thời gian ở trại Aran Prathet, đồng thời viết vài dòng báo tin cho các bạn của Tống còn ở trại Sikiew biết tin,” ông Vinh hào hứng kể lại.

Ông Nguyễn Quang Vinh (giữa) làm việc tại trại tị nạn Sikiew Thái Lan, 1983. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp)

Sau này ông Vũ Uyên Giang, tức Nguyễn Quang Vinh, mới biết nguyên nhân là vì: “Lý Tống khi vào trại Aran Jail thuộc đơn vị 506 trên đất Thái, được một thượng sĩ đến phỏng vấn, Lý Tống không chịu, đòi phải được gặp giới chức thẩm quyền cao hơn, và đích thân Đại Tá Tong Den đã đến phỏng vấn. Ông ta là người quen thói hống hách, đập bàn quát tháo vì có vài điểm nghi ngờ trong lời khai, và Lý Tống cũng nổi nóng không chịu hợp tác, hai người cãi nhau khiến Tong Den để tâm thù ghét, từ đó ông đã giấu tung tích Lý Tống, không cho ai tiếp xúc.”

Cuối cùng khi bị giao qua trại Phanom Samet, ông Lý Tống lại trốn trại, vượt biên tìm tự do lần nữa, và đã bơi qua eo biển Johor Strait để vào được Singapore an toàn, đúng như tờ Bangkok Post đã tường thuật.

“Tôi rất vui mừng khi nghe tin một người bạn sơ giao nhưng tưởng chừng như tri kỷ, đã trở thành người tị nạn đường bộ có cuộc hành trình bằng chân dài nhất, vượt qua hơn 2,500 cây số, vượt ngục ba nhà giam và bơi qua eo biển để vào Singapore. Tôi tin rằng con người như Tống chắc chắn sẽ không nằm yên chịu thúc thủ trong những vòng rào thép gai của trại Phanom Samet,” ông Vinh nói.

“Cuối Tháng Sáu, 1983, tôi nhận được thư của Tống viết từ đảo Galang, Indonesia, trên một tờ giấy màu xanh, ở mặt kia có bài thơ ‘YOUR KINDNESS’ mà Tống viết tặng tôi trong đêm chia tay ở trại Aran Prathet. Những dòng chữ quen thuộc của Tống khơi lại trong tôi những kỷ niệm lãng đãng ở vùng đất nắng cháy khô cằn, với tình thân của một người đồng hương, một bạn tù, một tình huynh đệ chi binh. Tất cả phải chăng là cái duyên với nhau trên phần đời lưu lạc xứ người!” ông Vinh bồi hồi cảm xúc.

Đập tan “Kế Hoạch Ba Bước” theo chân người đi xuất cảnh của Cộng Sản

Tại Việt Nam khi chương trình xuất cảnh theo diện H.O hoặc O.D.P (Ra Đi Có Trật Tự) được xúc tiến theo thứ tự, ông Vũ Uyên Giang đang làm việc tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan, với nhiệm vụ thanh lọc hồ sơ cá nhân, ông có cơ hội điều tra một số hồ sơ được Việt Cộng bố trí cài người.

Mục đích của Việt Cộng là cài người ra hải ngoại hoạt động trong những chương trình O.D.P, con lai, hoặc thuyền nhân, bộ nhân… theo “Kế Hoạch Ba Bước” với khẩu hiệu “Đánh Mỹ Ngay Trong Lòng Nước Mỹ” và đã có những trường hợp bị phát giác trong lúc phỏng vấn, nhưng cũng có thể có những trường hợp lọt lưới.

“Kế Hoạch Ba Bước” của Cộng Sản gồm có: 1/Gây dựng cơ sở bằng nhiều hình thức: móc nối, tuyên truyền, dụ dỗ, hăm dọa… bằng mọi cách để các đối tượng mắc mồi chấp nhận hoạt động cho Cộng Sản. 2/Huấn luyện và đào tạo các đối tượng về tình báo do trường đảng phụ trách, người thường học ba tháng và đảng viên, đoàn viên Thanh Niên Cộng Sản học sáu tháng. 3/Cài cắm, điều lắng, xâm nhập, và hoạt động.

-Trường hợp 1: Trịnh Văn Kim, trung úy Việt Cộng vượt biển bằng thuyền. Cuối năm 1981, trại tị nạn Sikiew trên đất Thái có ngôi trường trung tiểu học Our School (Trường Của Chúng Ta) từ lớp 1 đến lớp 9, dạy đủ các môn Toán, Lý Hóa, Khoa Học, Văn Chương, Anh, Pháp văn căn bản, để khi đi định cư, các em có thể học tiếp mà không bị dở dang, bỡ ngỡ.

Thuyền nhân Trịnh Văn Kim đi vượt biển cùng vợ và hai con. Con gái Kim học lớp 1 trường này, trong một lần nghịch phá, bị cô giáo phạt khẻ tay. Thay vì ôn tồn giải quyết một cách nhẹ nhàng, ông Kim lại chạy đến trường hung hăng mắng nhiếc cô giáo thậm tệ. Trong lúc nóng giận, ông ta đã nói “Chúng mày đừng tưởng sang đây mà không ai làm gì được chúng mày!”

“Chính vì câu nói này mà đương sự bị lộ tung tích, khi ban an ninh của trại đã báo cáo lên cấp trên ở Bangkok. Bằng nghiệp vụ chuyên môn, chỉ vài ngày sau khi chúng tôi đến điều tra, phát giác ra Kim là trung úy Việt Cộng giả danh là người vượt biển tìm tự do. Trên thuyền còn có hai người cùng đồng bọn với Kim khai giả là người được Kim cho đi theo mà không lấy tiền. Tuy Kim đã khôn ngoan tạo dựng kịch bản rất khéo nhưng đều không qua được cuộc điều tra. Trịnh Văn Kim, trung úy Trạm Hải Quan Cảng Nhà Rồng Sài Gòn, được bố trí vượt biển theo Nghị Quyết 42/Trung Ương Đảng theo ‘Kế Hoạch Ba Bước,’ cài người vào các nước tự do để chờ thời cơ hành động,” ông kể.

-Trường hợp 2: Nguyễn Minh Hiếu, y sĩ trung úy Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, chương trình O.D.P do vợ bảo lãnh đi Mỹ. Nguyễn Minh Hiếu làm việc tại Bệnh Viện 3 Dã Chiến Sài Gòn, đã bị móc nối gài ra nước ngoài trong “Kế Hoạch Ba Bước.” Sau khi vòng vo khai không đúng sự thật, phải xin khai lại khi bị phát giác, với lời khuyên phải thay đổi số điện thoại khi đến định cư ở Mỹ do vợ bảo lãnh, cũng không xuất đầu lộ diện ở những nơi công cộng và chuyển địa chỉ nhà đi nơi khác để khỏi bị phiền phức.

Ông Nguyễn Quang Vinh (thứ hai, trái, hàng đầu) cầm biểu ngữ biểu tình trước Tòa Bạch Ốc đòi nhân quyền cho Việt Nam, 1986. (Hình: Nguyễn Quang Vinh cung cấp)

-Trường hợp 3: Nguyễn Xuân Bằng, cán binh Việt Cộng vượt biển bằng thuyền. Giữa Tháng Mười Một, 1981, chiếc ghe của Đoàn Văn Sáng, chủ nhiệm Hợp Tác Xã Mây Tre Quận 4, chở hơn 20 người công nhân cập vào miền Nam Thái Lan, quận Hua Sai, tỉnh Nakhon Si Thammarat,  được chuyển lên Trại Songkhla. Tất cả mọi người đều khai được ông Sáng cho đi không lấy tiền, trong đó có Nguyễn Xuân Bằng, khai là giáo dân Công Giáo, là giao liên trong vụ án nhà thờ Vinh Sơn tại Sài Gòn nên được chấp thuận cho đi Mỹ.

“Nếu Bằng cứ sống yên như vậy chờ đúng ngày giờ đi định cư ở Mỹ, thì mọi việc sẽ êm xuôi, nhưng anh ta đã viết một bức thư gửi về người chú, báo tin hồ sơ đã được chấp thuận, chờ ngày đi định cư, nhân đó y xin ông chú gửi qua cho một ‘Đôi Dép Màu Trắng.’ Chính đó là điểm tự tố cáo và sau khi điều tra lại, y chính là cán binh Việt Cộng do ông chú là Tỉnh Ủy Viên tỉnh Thái Bình sắp xếp cài vào để đi Mỹ theo ‘Kế Hoạch Ba Bước.’ ‘Đôi Dép Màu Trắng’ chính là mật mã để ông chú gửi số điện thoại cho Bằng để liên lạc với người của tổ chức khi vào đất Mỹ,” ông Vinh cho biết.

Sang Mỹ trở lại nghề báo

Kể về quãng đời của mình, người chiến sĩ Quân Báo Nguyễn Quang Vinh năm xưa cho hay, thời gian qua mau, mới đó mà đã gần nửa thế kỷ, khi người Việt đã bỏ xứ ra đi tìm tự do nơi xứ người. Có người đã quyết chí học hành, làm việc cật lực để đóng góp cho quê hương mới, nhưng cũng có những thành phần được cài vào, mong chờ thời cơ để hoạt động cho quyền lợi của mình.

“Ngồi kể những chuyện về ông Ba Mai (xem lại nhật báo Người Việt số ra ngày Chủ Nhật, 10 Tháng Năm), tôi cũng không khỏi ngậm ngùi thương cho một bậc tiền bối rất chân thật và toàn tâm hợp tác với an ninh của VNCH, khai hết tất cả những gì ông biết mà không giấu giếm quanh co… Chính vì thế ông đã được cải danh thành người Hồi Chánh Viên, có cơ hội hợp tác trong phái đoàn Hòa Đàm Paris của chính phủ VNCH. Xin thắp nén hương lòng để tưởng niệm người cán bộ trung cấp hoạt động lâu năm trong hàng ngũ Cộng Sản, khi thức tỉnh quay về với chính nghĩa quốc gia đã hoạt động tận tụy trong chức năng được giao phó. Đến khi bị bắt trong lao tù Cộng Sản ông vẫn kiên quyết sống kiêu hùng, không khuất phục,” ông Vinh xúc động nói.

Quân Báo Vũ Uyên Giang tên thật là Nguyễn Quang Vinh, cựu ký giả ở Sài Gòn (1966-1968).

Sĩ Quan Trừ Bị Quân Lực VNCH phục vụ trong ngành Quân Báo (1968-1973).

Nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn (1973-1975).

Tù nhân trong các trại “cải tạo” của Cộng Sản (1975-1981).

Vượt biển tìm tự do, đến Thái Lan năm 1981, trở thành nhân viên Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Bangkok, Thái Lan.

Sang Mỹ, ông học trường Đại Học Cộng Đồng Wilbur Wright College, Chicago, Illinois (1983-1986).

Học xong, ông trở lại nghề báo, làm chủ bút Chicago Việt Báo (1986-1987), chủ nhiệm/chủ bút Nguyệt San Thời Việt Chicago (1987-1992).

Tiếp theo ông làm chủ nhiệm/chủ bút Tạp Chí Đất Sống tại Charlotte, North Carolina và San Leandro, California (1993-2007), chủ trương Nhà Xuất Bản Đất Sống 2006.

Tháng Bảy, 2007, ông về hưu. (Văn Lan) [qd]

—–

Xem lại kỳ trước: Quân Báo Vũ Uyên Giang và những trận đánh cân não

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

MỚI CẬP NHẬT