Thursday, April 25, 2024

Chuyện quan trấn thủ Trấn Biên-Biên Hòa có liên quan đến hát bội

Ngành Mai

Trên con đường mở rộng bờ cõi, ông cha của ta di cư từ phương Bắc xuống tận bờ biển phía Nam, mang theo phong tục tập quán, lễ nghi, đạo đức về cách ăn nếp ở, nói chung là văn hóa dân tộc. Âm nhạc và sân khấu, hai bộ môn nghệ thuật gắn liền với những khai hoang, lập ấp từ ngày đầu định canh, định cư hầu mang lại nguồn vui, nguồn an ủi, nối tiếp từ đời nay sang đời khác.

Một cảnh Đặng Đại Độ tự mang gông cùm về Kinh Đô Phú Xuân chịu tội. (Hình: Bộ sưu tập của Ngành Mai)

Không có sử sách nào ghi chép cụ thể nghệ thuật hát bội đã xuất hiện ở vùng phía Nam đất nước chúng ta vào thời điểm nào, cũng như cách sinh hoạt, biểu diễn tổ chức nhân sự ra sao. Sách sử xưa chép: Vào thời Chúa Nguyễn thứ 8, tức chúa Hiếu Vương, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765), người con trai thứ 9 của chúa tên là Hiển bị bệnh chết. Chúa đau xót cực độ, bèn hạ lệnh cấm dân gian không được hát xướng trăm ngày. Hết thời gian buồn thảm ấy, chúa sai hai quan thị vệ vào đất Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), bắt “con hát” (hát bội) đem về kinh đô Phú Xuân, để biểu diễn cho chúa tiêu khiển. (Khi xưa người ta gọi đào kép là con hát).

Hình như cậy thế cậy quyền, hách dịch là thuộc tính của những kẻ máu mặt dựa kề chúa thượng, cho nên hai tên thị vệ này dùng quyền lực nhà vua áp bức con hát đến thậm tệ. Lúc bấy giờ Đặng Đại Độ làm quan trấn thủ Biên Hòa, nghe tin thị vệ áp bức dân chúng, trước hết là con hát với chứng cớ rành rành, ông căm tức, bèn ra lệnh bắt hai tên thị vệ ấy xử chém tại chợ Biên Hòa. Xử xong, ông bàn giao công việc cho các quan ở lại chăm lo việc nước việc dân. Còn phần ông mặc quần áo bà ba đeo gông cùm, đi chân đất từ Trấn Biên về Kinh Đô Phú Xuân chịu tội. Con ông can rằng:

– Chừng nào về đến kinh đô sẽ hay, còn bây giờ cha nên lên võng mà đi, chuyện gì phải hành hạ mình như thế?

Ông trả lời:

– Nếu vậy sao gọi rằng có tội?

Thế rồi ông thản nhiên làm theo ý mình. Từ Biên Hòa đến Kinh Đô Phú Xuân, ông phải đi suốt một tháng ròng với thân phận một tội nhân.

May thay, lúc đến kinh đô gặp Chúa Nguyễn Phúc Khoát, ông được nghe chúa phán rằng:

– Ông có tội gì đâu mà phải đày đọa mình đến khổ sở như vậy? Chỉ vì ta buồn phiền mệt nhọc, nên mới bảo chúng nó vào tìm đôi đứa con hát về kinh giúp ta tiêu khiển, không dè chúng lại lợi dụng mệnh lệnh của ta mà giở thói làm càn nên ông buộc phải giết chúng là phải.

Chúa bèn hạ lệnh mở trói và mời Đặng Đại Độ hội triều cùng bàn việc dân việc nước. Câu chuyện nói lên dũng khí của người dám đương đầu với cái ác, kiên quyết xử tội những kẻ có tội dù kẻ ấy là hoàng thân quốc thích. Dũng khí ấy là dũng khí của một tôi trung, tự trói mình về kinh chịu tội khi biết mình có tội. Dũng khí ấy còn là dũng khí của bậc chính nhân quân tử, không lệ thuộc quyền cao chức trọng cũng không tham miếng đỉnh chung.

Qua sự kiện trên, chúng ta thấy sân khấu hát bội truyền bá vào đất Trấn Biên khá sớm. Ngay từ đầu thế kỷ 18, nơi đây đã xuất hiện con hát tài năng, nổi tiếng đến mức chúa Nguyễn Phúc Khoát phải cho thị vệ kêu ra Kinh Đô Phú Xuân (trong lúc kinh kỳ không thiếu tài năng).

Đến năm 1813, Tả Quân Lê Văn Duyệt là người sanh quán tại Định Tường, rất thích hát bội. Lãnh chức Tổng Trấn Gia Định Thành. Hát bội vốn đã đâm chồi nẩy lộc từ trước đó ít lâu, bây giờ như diều gặp gió, phát dương sinh sắc bởi bàn tay chăm sóc của chính quan tổng trấn. Chẳng những tổng trấn có riêng một đội hát bội, mà các quan xa gần thuộc trấn Gia Định đều tranh nhau lập đoàn hát bội, nuôi con hát trong hàng ngũ của quân đội. Thế là nghệ thuật hát bội đã lập cứ địa vững chắc tại Gia Định.

Nghệ thuật hát bội ở đất này có dịp gần gũi với hí kịch Trung Quốc của người Minh Hương, và với nghệ thuật hát của người Cao Miên, lần lần lớn lên và trau chuốt cho mình cái thân ngày nay vậy!

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

MỚI CẬP NHẬT