Thursday, April 25, 2024

Lasan 75-76 và Niên Học Cuối Cùng


LTS:
Bắt đầu từ hôm nay, nhật báo Người Việt sẽ đăng các bài tham dự cuộc thi viết “38 năm Little Saigon-35 năm Người Việt” vào các ngày Thứ Ba, Thứ Năm và Thứ Bảy hàng tuần, trên cả báo giấy và Người Việt Online. Tên tác giả được ban tổ chức thay thế bằng mã số. Hạn chót nhận bài thi là ngày 8 Tháng Mười Hai, 2013. Rất mong sự hưởng ứng của quý bạn đọc gần xa.


Tác giả: 35-006



Lời tựa:  Nhân kỷ niệm 100 năm (1913-2013 ) thành lập trường Lasan Khánh-Hưng Sóc-Trăng, tôi xin viết lại ký-sự những việc đáng nhớ ở niên khóa 1975-1976, đây là niên học cuối cùng chỉ còn năm Sư-Huynh dòng Lasan giảng dạy cùng trên dưới ba mươi nam nữ học sinh Lasan còn sót lại đến giờ phút cuối chứng kiến ngày trường chính thức đóng cửa vĩnh-viễn.
Cám ơn quý Frere, quý thầy, cô đã hy sinh, tận tụy dạy chúng con nên người, cùng thân-ái mến chào các bạn đồng môn Lasan trên khắp bốn phương trời, dầu cho thời gian có phôi-pha, mong rằng các bạn vẫn
quyết tâm nêu cao tinh thần Lasan học tập, tôn sư trọng đạo, học sinh là người tổ-quốc mong cho mai sau.


Khoảng thời gian Tháng Ba năm 1975

Không khí sinh hoạt trong trường hình như không còn bình thường, tôi đang học lớp 11, cả thầy lẫn trò hình như không còn chú tâm học tập, các thầy giảng bài cũng không còn mạch lạc, trò học hiểu tới đâu không quan trọng, linh tính có chuyện gì lớn hơn, quan trọng hơn. Tin tức, báo chí, radio, truyền hình liên tục loan tin chiến sự, Vùng I, Vùng II binh sĩ , dân chúng di tản trong hỗn loạn về phía Nam, Sài Gòn tăng cường phòng thủ, dân chúng khắp miền Nam sống trong phập-phồng lo sợ, ai ai cũng biết… Nhưng mọi việc sẽ diễn tiến như thế nào thì không ai đoán trước được.




Thằng Ðức mới vừa từ Nha-Trang về trở lại trường, các frère, các bạn hỏi thăm đủ điều vì Ðức học Chủng Viện Lasan Nha-Trang nơi đào tạo chủng sinh sẽ trở thành các Frere sau này. Tin tức biết được càng thêm hoang mang. Hai tuần sau thì Nhựt cũng lon ton về cũng từ Chủng Viện Lasan Nha-Trang. Như vậy trong trường có hai nhân vật di tản từ Miền Trung trở về càng tạo thêm không khí nặng-nề căng thẳng…

Các thầy có lúc đến dạy, có lúc không. Các frère không dạy bình thường nữa, thường hay nói về chuyện thời sự, hiện tình đất nước cho qua giờ, hai ngày liên tiếp trong lớp có rải truyền đơn, không biết từ ngoài cửa sổ trường ném vào hay có học sinh nào lén mang vô rồi rải trong lớp với nội dung kêu gọi bãi khóa và chống lại chính sách đôn quân. Sau đó các Fr. đều biết chuyện này, học sinh vẫn là học sinh, ăn chưa no, lo chưa tới, vô tư coi như mọi chuyện để nhà trường lo, không phải chuyện của mình…

Một buổi sáng nọ, trường thông báo các học sinh nội trú bài khóa cuối Tháng Ba, ai về nhà nấy chờ thông báo sau; các học sinh ngoại trú vẫn tiếp tục học.

Ðến giữa Tháng Tư, tôi được cô bạn học chung lớp nhắn tin chờ cô khi tan trường về, tôi không hiểu để làm chi, mối tình học trò một thoáng mây trôi, có lần đã làm tôi rơi nước mắt, mối tình chớm nở đã vội tàn. Nàng muốn cho tôi biết một chuyện “nghiêm chỉnh” không có đùa, rằng nàng sẽ đi Mỹ trong Tháng Tư này. Mẹ nàng làm trong sở Mỹ nên được ưu tiên di tản sang Mỹ, tôi nghĩ đơn giản, hôm nay đi, ngày mai yên bình lại về, chứ không nghĩ là hôm nay gặp nhau lần cuối,… Mong rằng chúng mình mọi chuyện giận hờn bỏ qua, và phải biết kể từ sau hôm nay chúng mình xa nhau thật rồi, dù cho có muốn nối lại tình ta chắc cũng đã muộn rồi. Hai đứa tôi bốn mắt nhìn nhau ngầm tự hỏi đó là sự thật à! Nói không nên lời, tôi nắm tay nàng, chúc nàng ra đi bình yên, may mắn “Nước mắt ấy đã lau khô rồi, đôi môi ấy đã quên tiếng cười…” Sân trường vắng lặng, không gian, thời gian như ngừng trôi, từng chiếc lá rơi, gió thổi cuốn bay trên sân trường, chúng tôi sánh bước đi lần về hướng cổng trường trong im lặng…

Rồi mai đây khi tình bay xa, nhớ phút giây này

Mình xa nhau xin đừng đi mau, sợ vỡ tan tình bấy lâu…



Những tháng ngày sau Tháng Tư, 1975

Sau vài tháng hỗn loạn, sinh hoạt đời sống người dân tỉnh Ba-Xuyên tạm thời ổn định, nhưng bây giờ tên gọi là Thị- xã Sóc-Trăng, người dân cũng chẳng thắc mắc tại sao tỉnh trở thành thị-xã và lấy lại tên cũ Sóc-Trăng từ thời trào Tây. Mọi người cần lo ổn định đời sống, cơm no, áo mặc hơn là các tên gọi, các danh từ mới, các nhân vật mới, ông lên bà xuống… sao cũng được miễn là hòa bình, hết chiến tranh là vui, là “phẻ rồi”, bây giờ chú tâm vào việc kiếm cơm.

Hàng ngày tôi cùng thằng Sử đi câu cá, tắm sông, chiều chiều đạp xe ra cầu Trà-Men Quốc lộ 4, ăn bắp rẫy mới luộc, ngắm đồng ruộng bao-la, cò bay thẳng cánh “Trên đồng lúa vàng, một bầy Sơn-Ca…” cảm thấy cuộc đời vẫn còn những giây phút thanh bình, có biết đâu đất nước đang trong cơn khủng hoảng, dầu sôi, lửa bỏng.

Tháng Tám, một đêm nọ trước giờ giới nghiêm 10 giờ…

Loa phát thanh thị-xã loan tin tất các các học sinh của các trường bắt đầu từ ngay mai, trở lại trường đăng-ký đi học cho niên khóa 75-76, học sinh trở về trường đang học để biết thủ tục đăng ký và trường sẽ theo học chia thành 3 cấp, trường cấp 1, trường cấp 2, trường cấp 3.

Sáng hôm sau tôi rủ thằng Huy (biệt danh Huy-Cận) đi đến trường “đăng-ký” đi học. Ðến trường thì gặp lại cô Thảnh và cô Dung. Các cô, trò vui vẻ gặp lại nhau, các học trò cũ Lasan thì dễ dàng vì hồ sơ học bạ còn nên không có di trở ngại. Ngoài ra còn thấy thêm một số học sinh mới từ các trường khác chuyển qua, lúc này chúng tôi mới biết trường không còn tên Lasan Khánh Hưng mà là trường Trung Học Phổ Thông Cấp 3. Ðể ý nơi cột cờ trước cổng trường tượng thánh Gioan-Lasan cũng không còn, chỉ còn bệ mà không tượng.

Sau khi đăng ký nhập học xong thì kể từ đó chưa lần nào gặp lại cô Thảnh, cô Dung. Hôm đó không có Fr. Samuel nơi văn phòng, một điều đặc biệt là niên học này hoàn toàn không có đóng học phí. Fr. Samuel, Fr. Marchel, Fr. Rene đã rời trường từ lúc nào, đi về đâu trong quên lãng, không còn ai nhắc đến, có lẽ các Frere đã về Lasan Mai-Thôn hưu trí.

Ngày nhập học vài tuần sau đó

Chúng tôi gồm đám học sinh kỳ cựu Lasan cả nam lẫn nữ không đầy 30 đứa, chia làm 3 lớp, một lớp toán và hai lớp sinh vật học chung với các học sinh trường khác chuyển qua như trường Trần Văn, Bồ Ðề, Providence, Rạng Ðông, Dục Anh… Cái đám học sinh mà các Fr. quen mặt hầu hết tập trung vào lớp toán nên được học với Fr. Quang dạy Vật Lý, Fr. Tú dạy Hóa Học, Fr. Lễ dạy Pháp-văn, một thầy dạy toán mới không nhớ tên, nhưng có biệt danh là “Chín-Dê” và có hai thầy miền Bắc, thầy thứ nhất dạy Việt văn “…Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, mặt trời chân lý chói qua tim “của Tố Hữu, Chí Phèo của Ngô Tất Tố, và Ngục Trung Nhật Ký tập thơ của Hồ Chí Minh… Thầy thứ hai dạy môn Lịch sử Ðảng Cộng Sản Việt Nam suốt niên học. (Ðặc biệt môn học lịch sử này thầy giảng hoàn toàn về Cách Mạng Tháng Tám, Khởi nghĩa Nghệ An chống Pháp cho đến năm 54, không có bài nào nói về chiến tranh Giải Phóng Miền Nam, chống Mỹ cứu nước, không đá động gì đến chính quyền Miền Nam Việt Nam và cũng không đả phá một ai trong chính quyền Sài Gòn. Xin lỗi hai thầy, chúng em không còn nhớ được tên hai thầy là gì, hai thầy bỏ lỗi cho.) Không được học với Fr. Tâm, Fr. Sơn nên không nhớ hai Fr. dạy môn gì trong niên khóa này.




Ngày nhập trường, không có diễn văn nhập trường, không có chào cờ, chẳng biết ai là hiệu-trưởng, cũng chẳng được gặp các Fr. trước khi vào lớp, học sinh 3 lớp 12 tự động xếp hàng trước lớp theo như quy củ ngày trước, (dãy lớp 8. 9 và lớp etude của nội trú) các học trò Lasan cũ làm sao thì học trò mới là theo y vậy. Học trò mới nghe danh “Thầy Dòng” đã từ lâu, nay thấy học trò cũ Lasan nghiêm chỉnh xếp hàng ngay ngắn đúng giờ vào lớp thì họ cũng hơi “khớp” trong lòng, và lúng-túng không biết xưng hô thế nào với các Fr. vì lúc đó các Fr. đi dạy không còn mặc áo dòng, ăn mặc bình thường giống các thầy khác, họ cũng không biết ai là Thầy, ai là Frere tất cả đều giống nhau. Mà Frere là nghĩa gì, viết ra làm sao, là tiếng Anh hay tiếng Pháp…

Sau mấy ngày đầu thì học trò cũ Lasan làm chủ tình hình, truyền đạt lại cho các học sinh mới biết phân biệt ông nào gọi là thầy, ông nào gọi là Frere, có thằng “đâm hơi, xỏ lá” hỏi “Vậy mình kêu bằng sư-huynh được không?” Dĩ nhiên là được, mà tụi mày muốn kêu là “đại-ca” cũng không có ai cấm. (cả đám cười ầm lên. Xin lỗi các Fr, tại tụi nó chứ không phải tại con. Chú-thích: tên gọi Thầy Dòng là Sư-Huynh, Mon Frère là Anh tôi tiếng Pháp).

Một điểm khá chú ý đầu tiên là… tiếng chuông. Tiếng chuông vô, tiếng chuông ra không có, ngày học đầu lại cũng đúng theo thông lệ giờ giấc cũ nên đúng giờ, học trò nhắc thầy hết giờ, và đúng giờ học trò tự động vô lớp và thầy, Fr cũng tự động đến rồi đi, không ai giao công việc giờ giấc này cho ai… Cuối cùng học trò này đành vát chuông đi đánh xứ người một cách bất đắc dĩ và cũng chính học trò này giựt sập cái chuông, (cái cục đồng làm đòn bật lại chuông vì giật mạnh liên tục nên nó bị văng ra, rớt xuống một cái rầm…, học trò ôm đầu chạy về lớp la lớn “xém một chút lỗ đầu tao…”, cả ba lớp đều nghe tiếng chuông sập rơi xuống đều cười ồ lên một lượt. Nhờ Hồng Ân Thiên Chúa nên nó không rơi trúng đầu, tạ ơn Chúa… Ðó cũng là điềm báo trước tiếng chuông sẽ đoạn trường từ đây.

Các Cựu Học Sinh Trung học Lasan Khánh Hưng không biết là buồn hay vui khi tiếng chuông quen thuộc đã bị giựt sập. Từ đây sẽ chấm dứt sau một thời gian lịch sử khá dài vang dội do chính tay người học trò có thể “Tự-Hào” là Lão Làng nhất trường từ năm 1963 dưới thời Fr.Bề Trên Hiệu Trưởng Bertin, Fr. Bề Trên Hiệu Trưởng Maxim (biệt danh Cụ Bề ),và Fr. Hiệu Trưởng N D Quang cuối cùng, học trò này chỉ học một trường duy nhất cho đến ngày tan hàng năm 1976.

Vì là năm học thi tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông (tú tài toàn phần cũ) nên chúng tôi chú tâm vào việc học tập, các Fr. vẫn đến lớp dạy nhưng “phong cách” không còn bình thường, chuyên chú vào môn dạy, đến rồi đi… Hình như không còn nặng tình thầy trò như xưa (ngoại trừ con số lẻ 30 học sinh Lasan cũ còn sót lại.) Thầy trò nhìn nhau ngầm tự hiểu lòng nhau, thời thế bắt buộc, lòng thầy một nẻo, lòng trò một đường…

Que sera sera!

Các học sinh cũ không còn lên phòng các Fr. hỏi bài, hàn huyên tâm sự như ngày xưa. Nỗi trầm tư hằn lên mặt các Fr. không còn tươi vui, rạng-rỡ, các Fr. trở nên khép kín, các học sinh thường hay quan sát Fr, Quang để đoán tình hình trời nắng hay trời mưa, hay cái gì, không khí ngột-ngạt… Không ai biết được, nhưng vẫn cứ muốn biết trước coi chuyện gì sắp xảy đến, vẫn cứ đoán mò nhưng không mò được gì. Riêng Fr. Quang thì tưởng học trò của mình (của mình đây nói riêng là đám Lasan còn sót lại nên Fr. quan tâm hơn) lo lắng cho kỳ thi sắp tới. Fr. thường nói theo sức học của các “Chú” thì Fr. yên tâm, các chú học như vậy thi đậu là cái chắc.


Thầy “Chín-Dễ”

Môn toán thường do các Frere. phụ trách, năm nay đặc biệt là do một thầy, thầy này hồi nào đến giờ không ai biết mặt, biết tên, và cũng không biết thầy đã từng dạy ở các trường nào! Ðến nay vẫn không nhớ tên thầy là gì, nhưng nhớ biệt danh của thầy học trò đặt cho là “Chín Dễ”. Thầy dáng người bình dân, nhưng đặc biệt thầy lúc nào cũng mang kính râm kể cả khi ở trong lớp, hỏi ra thì mới biết thầy đi đánh trận bị thương một mắt, nhưng đánh trận vào thời chín năm kháng chiến chống Tây, chứ không phải thời chống Mỹ, nên được có tên là thầy Chín, và bất cứ bài toán, hay bài giảng nào của thầy cũng đều nói Dễ, mà thầy hay thật, thầy giảng, thầy giải các bài toán cái rụp, học trò lúc mới gặp thầy coi bộ không phục , nay sau học vài tháng với thầy thì mới biết thầy cũng nội công thâm hậu, hễ thầy nói Dễ là Dễ, trò làm không được thầy hướng dẫn phương pháp làm, thầy cũng thường hay kể về cuộc đời đấu tranh chín năm kháng chiến của thầy nên tên được ghép thành thầy Chín-Dễ, còn tên thật của thầy không còn ai nhớ, một lần nữa thành thật xin lỗi thầy.

Hai thầy miền Bắc, hàng ngày vẫn quần xanh lá cây “bộ-đội,” áo chemise không trắng lắm, xăn tay áo, chân mang sandal cao su. Sau này mới biết cả hai thầy miền Bắc y phục chỉ có bấy nhiêu, và không biết hai thầy có được mấy bộ để thay đổi, mà suốt năm khi lên lớp hay ra phố cũng đều y chang như vậy, ngoại trừ thêm cái nón cối. Thầy ViệtVăn ở phòng Fr. Rene, thầy Lịch-Sử ở phòng Fr. Marchel.

Một hôm thầy Việt-Văn nhờ học trò vài đứa lên phòng thầy phụ mang sách xuống phát trong lớp. Ðến phòng, thầy có mời uống trà nghỉ giải lao, đây cũng là lần đầu tiên thầy trò nói chuyện với nhau ngoài giờ học. Có trò hỏi:

-Thầy thấy tụi em thế nào thầy?

Thầy thoải mái trả lời: Các em ăn nói hoạt bát, vui vẻ, nhất là lễ phép.

-Thế thì còn học trò miền Bắc ra sao?

Thầy chậm rãi trả lời, “Các học trò miền Bắc không được ‘may mắn’ như các em, ngoài Bắc vì phải dồn nỗ lực cho công cuộc chống Mỹ, giải-phóng miền Nam và đồng thời phải lo xây dựng XHCN nên… nên đời sống không sung túc, thoải -mái như trong Nam.

-Các em cũng nghèo lắm thầy ơi!

-Cái nghèo của các em mà cái giàu ngoài Bắc có ngủ mơ cũng không có được.

– Miền Nam giàu có hơn, hết chiến tranh rồi, như vậy mình có cần xây dựng XHCN không thầy?

-Thầy đảo mắt nhìn các học trò, đôi mắt thầy long-lanh, hình như có điều gì cảm- xúc trong lòng, thầy không trả lời trực tiếp, thầy nói “Thầy thấy nơi các em đôi mắt trong sáng ngây-thơ, và tấm lòng thật-thà…”

Chúng tôi cũng vẫn chưa hiểu ý thầy muốn nói gì, nhưng sau này mới biết là: “Thật-thà chịu nhiều xót-xa” không phải chỉ riêng mình mà là cả miền Nam, cả dân-tộc.

Buổi thảo luận chính-trị duy nhất trong niên học được tổ chức trên lầu dãy tiểu học, nơi có sân khấu tổ chức văn nghệ. Buổi thảo luận được Fr. Sơn hướng dẫn, các thầy, các Fr. cũng có mặt. Thầy thuyết trình sơ lược tổng quát về tình hình đất nước, không đi sâu lắm, chỉ những chuyện đời sống, xã hội có những thay đổi, đại khái vẫn còn nhiều khó khăn trước mắt, chúng ta cần kiên nhẫn và quyết tâm xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Sau đó Fr.Sơn hướng dẫn thảo luận, hỏi và trả lời về bài thầy mới vừa thuyết trình. Một vài câu hỏi, câu trả lời rời-rạc, không sôi nổi, có lẽ các trò cũng chưa quen những buổi thảo luận, nhất là đề tài chính trị. Sau một đôi phút yên lặng, có một trò giơ tay xin đặt câu hỏi, Fr. Sơn mời lên đặt câu hỏi trước micro, “Kính thưa thầy, thưa Fr. Binh pháp Tôn Võ Tử có nói: Chiếm được thành, lấy được nước, chưa gọi là thắng, mà phải lấy được lòng dân thì mới gọi là thắng, theo tình hình đất nước và đời sống nhân dân hiện nay mình có gọi là đại thắng, đại thành công không à?”

Cả hội trường yên phăng-phắc, bỗng nhiên đồng loạt vỗ tay. Fr. Sơn đang bị chiếu bí, ú ớ nhìn chung quanh cầu cứu, Fr. không trả lời được,chỉ nói quanh co, nhìn thằng vào học trò cười trừ như ngầm bảo “Trò đá nhầm gà nhà rồi, khổ cho Fr. quá.” Xin lỗi Fr. trò ấy có lý đấy, nhưng bắn lộn mục tiêu nhầm phe ta, hí hí.


Tháng Năm, 1976

Thắm thoát niên học sắp hết, trong suốt một năm học “lạ-lùng” đi qua trong yên bình, thầy trò hiểu nhau hơn, học trò vẫn chăm chỉ học tập. Thằng Sử hay vặn lạc đài cái radio của Fr. Quang làm Fr. nói trong micro không được, Fr. kêu học trò này chỉnh đài lại, Fr. biết mà vẫn bỏ qua, giận thì giận, mà thương thì thương. Fr. còn nhớ thằng Sử không? Thằng Sử chơi đàn mandoline kỳ văn nghệ bên trường Dục-Anh, Fr. dẫn đi đó… Tội nghiệp nó mất rồi Fr. ơi! Sau này, nó cũng là giáo sư toán cấp 3 (đúng là nghiệp?), tại vì nó không thắng nổi “Ðế Quốc-Doanh.”

Ngày thi tốt nghiệp chúng tôi đã có vào đầu Tháng Sáu, tập trung các trường thi tại Trung Học cấp 3 Hoàng Diệu. Thầy, Frere đến lớp chỉ để ôn bài, các học trò giỏi phụ giúp chỉ lại các bạn kém hơn, các học trò tự hoc hay có thể ra về tự do… Chúng tôi bốn thằng gồm Tài, Lợi, Quyền, Ðức rủ nhau đánh pingpong trong phòng lớp 1 gần cầu thang dãy tiểu học. Chúng tôi đang chơi pingpong thì nghe tiếng người đi ồn ào ngoài sân giữa, các học sinh tan học sao không về mà tập trung theo từng lớp ở đây làm gì? Chúng tôi vẫn tiếp tục chơi, độ vài phút sau thì có một bạn chạy đến kêu bọn tôi ngừng và ra cùng họp ngoài sân, chúng tôi vội vã chạy đến tập trung ngồi xếp bằng xuống đất. Không biết họp gì đây, chúng tôi đã thấy các Fr. các thầy và một số “khách” đang ngồi trên ghế ngay ngắn. Một thầy bước ra đọc tuyên bố lý do buổi họp, sau đó một người khách bước ra tự giới thiệu chúng tôi là cán-bộ trung-ương hôm nay đến đây thi hành quyết định của nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản của nhà trường, nay thuộc về nhà nước quản lý, các giáo viên Quang, Tâm sẽ quản chế trong một thời gian, còn các giáo viên khác (chỉ các Frere thôi) kể từ hôm nay chấm dứt nhiệm vụ giảng dạy, phải rời khỏi trường hôm nay và phải bị tạm thời quản lý treo trong thời gian ngắn trước khi trở về nguyên quán.

Không ai có phát biểu gì thêm, không khí cô động trong yên lặng. Ông cán bộ bèn cho lệnh thi hành công văn quyết định của nhà nước. Có một vài cán bộ đi đến chỗ các Frere đang ngồi, các Fr. cùng đúng dậy đi theo cán bộ xuyên qua sân bóng rổ về hướng dẫy lầu ngủ. Tài vùng dậy chạy với theo nói “Fr. ơi! chút nữa về nhà con ở” Fr. Tú nhìn lại gật đầu. Buổi họp cũng tự động tan sau đó.

Ðộ một tiếng sau, Tài đang đứng trước cửa nhà thì Fr. Tú đi “xe lôi” đến, học trò chỉ Fr. đi về khách sạn ở tạm trước, đã đặt
phòng rồi. Xe chở Fr. về khách sạn, khoảng nửa tiếng sau thì Lợi chạy đến hỏi Tài Fr Tú. đang ở đâu để đón Fr. về “chăn heo” chung với nó trong trại nuôi heo của gia đình. Frere Lễ thì trò Dũng (biệt danh Dũng Campuchia) đón về ở chung với gia-đình ở Ngã Ba “Chuồng Chó”, Fr là bạn cùng quê với Ba của nó. Còn một nhân vật cuối là Fr. Sơn, không biết Fr. trôi về bến nào? Nghe nói Fr. tá túc ở một gia đình bà nấu bếp cho trường. Chuyện này gây ra nhiều thắc mắc, sao không có học trò nào đến đón Fr. vậy ta? (chuyện đời khó hiểu).

Bẵng đi mấy tháng sau, học trò buồn tình đi loanh-quanh thăm dân cho biết sự tình trong mấy dãy bán hàng trong chợ, đang đi bỗng giật mình thấy Fr.Sơn đang dọn hàng bán, bên cạnh còn có chị Loan (biệt danh cô Ký Bé) À à ra là vậy, có gì đâu mà khó hiểu, cô Ký Bé với khuôn mặt xinh-xắn, thanh-nhã nhìn học trò vẫn nụ cười bẽn-lẽn, con mắt liếc đi còn có đuôi, “Nhà em mái lá đơn sơ nhưng tấm lòng rộng mở” đã đón Fr. Sơn vào. Bây giờ thì phải gọi là hai thầy cô có chung một “Bi-Di.Net” bán nón lá, mà là nón lá bài thơ cơ “Ai ra xứ Huế thì ra…” còn Fr. nhất định ở lại đây, bởi vì Fr. sợ trời mưa… Vì tiếng mưa “…Tiếng mưa trong lòng làm mình cô đơn…”

Sep, 2013.
Little Saigon, Westminster, California.
U.S.A

MỚI CẬP NHẬT