Friday, April 19, 2024

Nhìn lại liên hệ Việt-Mỹ: thập niên thứ nhì thế kỷ 21

Cổ-Lũy

Cột báo đã đi qua liên hệ Việt-Mỹ thời ông Bill Clinton mang nhiều tính chất ngoại giao và lịch sử; thời ông George W. Bush chú trọng vào ngoại thương. Không quên những gánh nặng tiêu cực trong lịch sử ngoại giao Mỹ, Tổng Thống Barack Obama hướng liên hệ vào chiến lược lâu dài cho thế kỷ mới.

Giai đoạn thập niên thứ nhì này dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ, các nghiên cứu về bang giao quốc tại George Washington University. Ông Jonathan Rauch, nhà phân tích chính trị nguyệt san The Atlantic và The Economist cũng đưa ra cái nhìn về ông Obama so với những tổng thống khác.

Những thay đổi chiến lược

Tuy trong nhiệm kỳ đầu bận rộn với kinh tế và những cải tổ cấp thiết trong nước, Tổng Thống Barack Obama mang tham vọng thay đổi chính sách ngoại giao căn bản đã đeo đẳng giới lãnh đạo Mỹ sau Thế Chiến II (1945). Chính sách ngoại giao của chính quyền Obama mở đầu như một phản ứng, với ý đi xa đường lối ngoại giao quá năng động và hung hăng của ông Bush, vốn thiếu hiểu biết về ngoại giao nên chịu những lấn lướt nặng nề từ Phó Tổng Thống Dick Cheney và Tổng Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld. Hai vị này, từng giữ vai trò quan trọng trong chính quyền Ronald Reagan bảo thủ cực đoan (xin xem TNCA tuần trước) lại nằm chặt trong vòng ảnh hưởng của giới trí thức “Tân bảo thủ/Néo-conservative” với chủ trương hùng hổ “can thiệp/interventionist” lấy thịt đè người.

Ông Obama với trí thức sâu rộng (như ông Clinton), lý tưởng và từ tâm (như Tổng Thống Jimmy Carter) muốn đi theo đường lối “soft power” dùng ngoại giao và thuyết phục, và tránh chiến tranh rộng lớn gây tai họa cho người khác và chính mình. Ông Obama đã đích thân làm 11 chuyến đi thăm thú, bàn thảo với 14 nước trong vùng Châu Á-Thái Bình Dương, nhất là các nước Ðông Nam Á. Ðây chưa kể hàng trăm những bàn thảo, trao đổi của các tổng trưởng ngoại giao và quốc phòng Mỹ và các cấp thấp hơn cùng thời gian. Ðiều này chứng tỏ ý thức về tầm quan trọng của vùng và ý muốn trao đổi, nghe ngóng chứ không phải dạy dỗ, bắt buộc.

Mặt khác, những tác động trên cũng phù hợp với phản ứng của dân chúng sau tám năm Bush-Cheney: đã chán ngán chinh chiến tốn kém và đau thương, gần hai phần ba người Mỹ tin rằng Hoa Kỳ cần “lo chuyện của mình” và “để cho các nước khác lo chuyện của họ, bằng lối mà họ xem là tốt nhất,” theo thăm dò dư luận của viện nghiên cứu vô tư và thẩm quyền Pew. Ðây là ý hướng “cô lập/isolationist” từng thấy sau Thế Chiến I (1918), và cũng đã lộ rõ trong và sau cuộc chiến Mỹ ở Việt Nam. Như ông Carter nhận xét, “ [Người Mỹ] rất khó mà đi vào chiến tranh, nhất là cuộc chiến như ở Việt Nam;” vì vậy, các chính quyền Mỹ muốn tham chiến lớn đều phải vin vào những lý do ghê gớm – nhiều khi đi đến chỗ thổi phồng hay bịa đặt những nguy cơ, đe dọa (như Bush-Cheney trước khi đi vào Iraq, ở bài trước).

Tuy nhiên, những ý kiến “đẹp” và lý tưởng kiểu “isolationist” lại là chuyện không tưởng, và đầy mâu thuẫn khi ta nhìn vào bối cảnh một thế giới đơn cực với Hoa Kỳ làm bá chủ (về kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa). Dù không theo khuynh hướng “can thiệp,” cái bi kịch của ông Obama là chính ông cũng không thể chọn lựa vị trí “cô lập” khi Hoa Kỳ từ sau 1945 đã khởi đầu chiến lược “Be Bờ/Containment” bủa vây thế lực Nga Xô-viết đồng thời xiển dương “dân chủ tự do/liberal democracy” kiểu Mỹ khắp mọi nơi, hỗ trợ bởi sức mạnh quân sự, chính trị và kinh tế không đối thủ.

Trong thế kỷ mới, đối thủ là Trung Quốc với cùng tham vọng siêu cường và phương tiện sẵn sàng.

Ngay đầu nhiệm kỳ, Tháng Ba 2009, ông Obama gặp “thử thách” từ hải lực Trung Quốc làm khó khăn chiến hạm Mỹ Impeccable tuần tra trên hải phận quốc tế ở Nam Hải, mãi bên kia bờ Thái Bình Dương. Bốn tháng sau, Ngoại Trưởng Hillary Clinton, người thi hành chính sách của tổng thống, ký Hiệp Ước Thân Hữu và Hợp Tác (TAC) với Hiệp Hội Các Nước Ðông Nam Á/ASEAN với tuyên ngôn “…[ngày nay] Hoa Kỳ trở lại Ðông Nam Á.” Cuối năm, ông Obama làm chuyến đi 10 ngày qua các nước Nhật, Singapore, Hoa và Nam Hàn, với mục tiêu “củng cố vai trò lãnh đạo và kinh tế Mỹ trong vùng, tái thiết những liên minh cũ, [và] tạo dựng những liên hiệp mới.” Ông Obama hơi thất vọng về liên hệ với Bắc Kinh. Ðúng một năm sau TAC, bà Clinton tới Hà Nội với thông điệp đưa liên hệ Việt-Mỹ tới mức cao hơn: “…[liên hệ này] là một phần trong chiến lược với mục tiêu tạo dựng những gắn bó trong vùng Á Châu Thái Bình Dương và đặc biệt là Ðông Nam Á.” Cùng năm Hoa Kỳ thỏa thuận “hợp tác chiến lược” với New Zealand và Indonesia. Tuyên ngôn trên là dấu hiệu mở đầu chiến lược “chuyển trục/pivot” hay “tái quân bằng/rebalance” cô đọng ở cuối năm 2010.

Tháng Chín 2011, hai thứ trưởng quốc phòng Việt-Mỹ ký văn kiện “thúc tiến cộng tác quốc phòng song phương” với hứa hẹn cộng tác trong các lãnh vực an ninh hàng hải và đáp ứng thiên tai. Hai tháng sau bà Clinton tuyên bố thế kỷ 21 là “Thế Kỷ Thái Bình Dương Mỹ” khi Hoa Kỳ “đứng ở điểm chuyển trục” và phải “gắn bó vào những gia tăng đầu tư… trong vùng Á Châu-Thái Bình Dương” trong thập niên tới. Hai tháng sau ông Obama và bà Clinton công bố “Hiệp Ðịnh Mậu Dịch Xuyên Thái Bình Dương/Trans-Pacific Partnership” (TPP) tại Diễn Ðàn Châu Á Thái Bình Dương (APEC) ở Hawaii với tuyên ngôn xếp loại TPP như “một… thỏa thuận toàn diện mở rộng thương mại và đầu tư nhằm đáp ứng những vấn đề thương mại cũ và mới, và những thử thách trong thế kỷ 21.” TPP xác định vùng Á Châu Thái Bình Dương là “ưu tiên địa dư chiến lược/geostrategic priority” của Hoa Kỳ.

Những khía cạnh trong “chuyển trục/tái quân bằng”

Theo nghiên cứu của Elliott School of International Affairs, George Washington University, ông Obama “chuyển trục” nhắm vào Châu Á-Thái Bình Dương với những ưu tiên: duy trì quân số và khả năng quân sự Mỹ trong vùng dù ngân sách quốc phòng bị cắt giảm đáng kể; tỏa rộng lực lượng và căn cứ ở Ðông Nam Á, Nam Á và Ðông Bắc Á; phát triển chiến thuật dùng Hải-Không lực ở vùng riềm biển thuộc chủ quyền Trung Quốc và cả Iran. Việt Nam ký thỏa thuận với Hoa Kỳ về hợp tác quốc phòng mặt biển cùng những thực tập quân sự chung. Washington lần hồi huấn luyện và chuyển nhượng vũ khí, chiến cụ đến các nước trong vùng.

Về mặt kinh tế Hoa Kỳ đưa ra những sáng kiến song phương và đa phương, và hội nhập vào kinh tế đang lớn mạnh trong vùng cần thiết cho phát triển kinh tế Mỹ; gia tăng viện trợ kinh tế trong vùng lên đến bẩy phần trăm; Việt Nam thành một trong bốn nước nằm trong Sáng Kiến Xuất Cảng của ông Obama. Mặt ngoại giao cho thấy Hoa Kỳ chú trọng vào những quan hệ ở mức nguyên thủ quốc gia và cấp tổng/bộ trưởng nhằm bàn luận và thực hiện các mục tiêu về an ninh, ổn định, trao đổi kinh tế tự do và công khai, liên hệ chính trị cũng như nhân quyền và trách nhiệm nhà nước. Hoa Kỳ đóng vai trò thúc đẩy an ninh chung, tự do mậu dịch và xã hội cởi mở.

Hoa Kỳ cũng phải khéo léo và tế nhị để không bị xem là quá bận tâm vào cạnh tranh với, hay ngăn cản bành trướng hung hăng của, Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng hiểu rằng Việt Nam và một số nước khác nằm ở vị trí địa dư và thế chính trị đặc biệt: lệ thuộc vào Trung Quốc về nhiều mặt, nên dù lo sợ và âm thầm chống đối Bắc Kinh, cũng không thể quá thân thiện hay hồ hởi ra mặt với Washington được.

Khi ông Donald Trump đắc cử tổng thống với chủ trương ngoại giao “isolationist,” toàn bộ chiến lược Châu Á-Thái Bình Dương của ông Obama như hoàn toàn bị đảo ngược. Ðây là đề tài tiếp theo của cột báo này.

Những cải tổ chiến lược

Với mô thức trên, cùng ý thức về những nguy hiểm của ngoại giao như một “nối dài/extension” của những yếu tố chính trị và kinh tế tiêu cực kiểu “Reaganomics,” ông Obama đưa ra khuôn mẫu căn bản “Hợp Tác Toàn Diện Mỹ-Việt/U.S.-Vietnam Comprehensive Partnnership” đầu nhiệm kỳ thứ nhì (2013). Dựa vào đây, Hoa Kỳ ủng hộ “một nước Việt Nam hùng mạnh, độc lập và thịnh vượng, tôn trọng nhân quyền và thượng tôn pháp luật.” Theo bộ Ngoại Giao Mỹ, liên hệ đôi bên gia tăng hợp tác và rộng mở.

MỚI CẬP NHẬT