Sunday, May 19, 2024

Ước vọng khôn nguôi của anh Nguyễn Tường Hùng

Ngọc Cường

Tôi mới nhận được hung tin anh Nguyễn Tường Hùng, một nhà văn nghiệp dư, một kiến trúc sư và là một nhà đạo diễn phim ngắn không thành danh, vừa qua đời tại Paris hôm 24 Tháng Tám, 2023, thọ 92 tuổi.

Nhà văn Tường Hùng rất đặc biệt đối với tôi, vì anh không chỉ là người anh cả trong một gia đình đông anh chị em (11 người), mà vì anh, khi lúc mới 16 tuổi đã phải là người “vú nuôi” tôi lúc mới lọt lòng mẹ được bốn tháng. Năm 1947, mẹ của chúng tôi qua đời trong khung cảnh loạn lạc, chiến tranh Việt Minh-Pháp khi ông cụ thân sinh ra chúng tôi không có nhà, ông đã bị Việt Minh giam giữ ở Phú Thọ.

Tường Hùng, Sài Gòn năm 1953. (Hình: Ngọc Cường cung cấp)

Tiếp theo nỗi bất hạnh như thể “họa vô đơn chí,” sự trở về nhà của ông cụ chúng tôi cũng không mang lại niềm vui lâu dài. Chỉ hai năm sau, ông tục huyền và chúng tôi phải chịu sự đối xử tẻ lạnh của người mẹ kế. Nhưng anh Tường Hùng luôn luôn bảo vệ đàn em trước sự đối xử không đẹp của bà dì ghẻ. Anh khôn khéo như một kẻ đu dây, đu đưa giữa hai thái cực: vừa lịch sự với bà dì nhưng vẫn cứng rắn khi cần tranh đấu cho đàn em nheo nhóc. Như một phép lạ, anh vừa được lòng người mẹ kế, và cũng vừa lo chu toàn cho đàn em.

Viết về anh Nguyễn Tường Hùng không phải là khó, bởi vì anh có một cá tính đặc biệt: Vừa mẫu thuẫn vừa phức tạp. Một tạng người nhỏ bé, nhưng lại dồi dào sức tưởng tượng. Con tim đa sầu-đa cảm nhưng hành động có vẻ ích kỷ và cuộc sống đầy tự kỷ ám thị.

Vốn có một tâm hồn nghệ sĩ (có thể là do cái tính di truyền của dòng họ Nguyễn Tường), anh viết văn sớm (Gió Mát), và trở nên một thành viên dự khuyết của Tự Lục Văn Đòan. Năm 1953, trong tờ chúc thư văn chương, Nhất Linh đề cử ba nhà văn: Duy-Lam, Nguyễn Thị Vinh và Tường Hùng; và bởi vì không chính thức nên anh không bao giờ sử dụng danh xưng này.

Năm 1958, anh được Nhất-Linh cho vào trong Ban Biên Tập Văn Hóa Ngày Nay (BBT gồm có Nguyễn Thành Vinh, Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam và Tường Hùng). Trong Giai Phẩm VHNN, anh đóng góp về truyện ngắn, tiểu luận và đôi khi vẽ tranh hí họa.

Cũng trong thời gian này, vào một ngày đẹp trời, khi kiểm soát bàn học của tôi, tình cờ anh đọc lén một đoạn nhật ký của tôi để trong hộc. Đọc xong, anh vội vàng đưa cho Nhất-Linh xem. Có lẽ nhận thấy đoản văn đó dí dỏm, nên ít lâu sau đó , nhà văn Nhất-Linh đã mở ra hai tiết mục trong Văn Hóa Ngày Nay nhằm khuyến khích các mầm non văn nghệ. Đó là trang Lan Hàm Tiếu dành cho các em bé , và mục Lan Sơ Khai cho các thanh – thiếu niên tập tành viết văn.

Kết luận là đoản văn của tôi được đăng trên Văn Hóa Ngày Nay (bài Chị Của Bạn Tôi, và nhiều bài khác nữa).

Tôi không nhớ rõ anh Tường Hùng bắt đầu có máy chụp hình từ hồi nào, nhưng qua những tấm ảnh cũ cho thấy anh đã chụp nhiều kỷ niệm của gia đình từ khi còn ở Hà Nội (cuối thập niên 40, đầu 50), và cho đến khi vào Sài Gòn năm 1952, tôi thấy anh đã có máy thâu hình cầm tay xử dụng loại phim khổ 8 ly.

Rất tiếc là ngày nay, trong những tấm hình đó, vì do anh chụp nên đã không có mặt anh! Gần đây, mỗi lần mở tập hình cũ ra xem, vợ con tôi đều hỏi: “Sao không thấy có bác Hùng trong tấm chụp gia đình bao giờ?”

Từ đó, anh là thợ chụp hình lẫn đạo diễn phim cho những ngày lễ lạc như Tết, cưới hỏi của gia đình. Tôi còn nhớ vào dịp Xuân năm 1957, anh quay phim sinh hoạt gia đình chúc Tết. Đến lúc thu hình mấy chậu hoa cúc, anh nhờ tôi bò nấp sau để rung chậu hoa, làm giả như có gió nhẹ nhàng thổi qua. Nhưng khi đoạn phim được rửa ra và trình chiếu, thì cả nhà cười rộ vì do tôi rung quá mạnh, chậu cúc lắc lư như chịu đựng trước cơn gió bão.

Ước mơ làm phim của anh bắt đầu từ đó. Nhiều lần, anh lôi tôi ra (một đứa bé) bảo thử diễn tả khuôn mặt của một người buồn-vui hay hốt hoảng… cho anh xem, như thể anh là một đạo diễn đang sử dụng đứa em đóng thử (audition).

Năm 1959, sau khi tốt nghiệp Đại Học Kiến Trúc ở Sài Gòn, anh xin được học bổng của tòa Đại Sứ Ý ở Sài Gòn (cùng với họa sĩ Phạm Tăng của nhật báo Tự Do) cấp cho sang Rome học tiếp về Kiến Trúc. Thời gian sống ở Ý, anh tìm đến một trường Điện Ảnh xin học hàm thụ ngành đạo diễn phim.

Từ đó, anh bắt đầu có ước mơ làm phim.

Song song với việc làm kiến trúc để kiếm sống, anh bỏ tiền túi ra thực hiện nhiều phim ngắn (hiện vẫn còn lưu trữ trên YouTube). Phim anh thực hiện quá nặng mùi triết lý, khó hiểu và cố nhiên không thành công về thương mại.

Có cuộc sống mãi tận bên trời Tây, dù muốn hay không, cũng đã tạo nên hoàn cảnh “xa mặt cách long” giữa hai anh em chúng tôi. Tôi lớn lên thiếu vắng bóng người anh cả, nhưng những kỷ niệm và sự săn sóc của anh lúc thiếu thời đã ghi đậm vào tâm khảm tôi. Lớn lên giữa hoàn cảnh chính trị rối ren và ra đời đúng lúc chiến tranh kéo đến quê hương Việt Nam, tôi không giữ được thường xuyên mối liên lạc với anh cho đến khi chiến tranh chấm dứt.

Sau khi đậu tiến sĩ về Kiến Trúc ở La Mã, anh di dân qua Pháp và lấy vợ, một bà đầm xa lạ, ít nói, và thích có cuộc sống khép kín, như không muốn giao thiệp với ai. Bởi vậy, sau này, mỗi lần qua Pháp, hai anh em chúng tôi chỉ gặp nhau tại văn phòng kiến trúc của anh, gần khu chợ Việt Nam ở Quận 13.

Anh vẫn làm việc sau khi chính thức về hưu, nhưng mối đam mê làm phim không hề rời anh. Xem ra phim ảnh là ước mơ không đạt của anh, có lẽ vì vậy mà anh muốn tôi làm phim như truyền đạt ước mơ của anh qua cho tôi.

Mỗi khi gặp nhau, anh lại nhắc nhở, khuyến khích tôi viết truyện phim hay nỗ lực trở thành một đạo diễn điện ảnh. Có lẽ anh tin đứa em út có tài cán gì về chuyên ngành này: rồi anh cho tiền để tôi mua máy quay phim, tất nhiên không còn cồng kềnh loại 8 ly mà là digital. Nhưng than ôi, tôi xem ra chẳng có tài cán gì cả.

Trong những năm 60, 70, lâu lâu anh có viết truyện ngắn cho Tạp Chí Văn, và gần đây hơn, anh cho xuất bản cuốn tiểu thuyết “Con Ve Sầu.” Sáng tác của anh khó hiểu nhưng không kém hấp dẫn vì vừa hiện thực, vừa sâu sắc. Theo nhà văn Bùi Bích Hà, văn phong của anh “có vẻ đẹp lung linh, bay bổng, siêu thực và quý tộc.”

Nỗi ám ảnh của anh đôi khi gây khó chịu và khiến tôi mất kiên nhẫn tranh cãi với anh, tôi cố khuyên anh từ bỏ việc làm phim. Nhưng nào ai có thể ngăn cản được một giấc mơ, nhất là một khi nó đã trở thành nỗi ám ảnh và là lẽ sống của một nghệ sĩ. Tại sao tôi lại cố kéo anh về với sự thật, mà sự thật đó cũng chỉ là của tôi, chứ không phải của anh.

Sai sót của tôi ngày nay trở thành mối ân hận khi anh mất, và tất cả đã quá trễ để có lời trực tiếp xin lỗi anh.

Tôi không thể nào quên, năm 2018 ghé thăm anh, sau bữa ăn ở quán ăn gần nhà, lúc chia tay ra về, chúng tôi nhìn theo: Anh lúc này đã yếu, chân đi không vững, đang được cháu Thắng dìu đi khuất vào trong căn hộ cao tầng xừng xững một cách lạnh lẽo dưới bầu trời Paris ảm đạm.

Trong khoảnh khắc, những hình ảnh và đoạn phim về gia đình chúng tôi được anh chụp và quay bỗng vụt trở lại trong tâm khảm của tôi: Từ những ngày xa xôi ở Hà Nội năm 1949, cho đến Sài Gòn 1952….rồi Paris 2018. Trong đó, khuôn mặt buồn bã của anh lãng đãng hiện ra rồi mờ dần.

Đó là lần chót chúng tôi gặp anh.

Xin vĩnh biệt anh Hùng thân yêu!

[disqus_shortcode_codeable]