Thursday, April 25, 2024

Đằng sau những câu thơ dễ dãi của Bùi Giáng

Du Tử Lê/Người Việt

Trước những tan nát chiến tranh, thất lạc dĩ vãng và hoang mang trước tương lai, đa số con người ngày càng sa lầy trong hố sâu duy lý, bắt nguồn từ Hégel tới những tiêm nhiễm của lý thuyết duy vật biện chứng, khởi dẫn từ Marx, đã đưa họ tới chân tường tuyệt vọng…

Họ Bùi ôm ấp hoài bão dựng lại cho mình, cho đời, một thế quân bình giữa lý trí cực đoan và hiện tại bất lực. Nhưng trước mắt thi sĩ, cái không gian riêng tây, hòa đồng thiên nhiên, hồn nhiên từ thuở lọt lòng, đã trở thành vùng biển máu và nước mắt.

Dòng thời gian chảy xiết mấy nghìn năm cuốn theo mệnh nước lầm than, từng, có những khoảng khắc thăng hoa, nay chỉ thuần là những con dốc đứng thẳng theo chiều tăm tối! Bùi Giáng buộc mất hay chúng ta, nhân loại buột mất cõi trú của tương lai từ sân ga hiện tại:

“Tìm cố quận xanh mờ thủy nguyệt
Kiếm quên hương khóc bích ngạn đào
Nhung nhớ chết đọa đày biền biệt
Gió một vùng huyễn mộng chiêm bao”
(Câu Hỏi)

Những ray rứt, khoắc khoải của Bùi Giáng khiến ta nhớ tới một Tarrou trong “La Peste” của Camus. Chiến tranh cũng là một thứ dịch hạch mà hậu quả của nó là những nhát dao chém, những làn roi cay nghiệt quật xuống thân phận con người? Nó trở thành những ám ảnh siêu hình từ tiềm thức, vây hãm đến cả mộng mị chiêm bao của thi sĩ:

“Những bà mẹ khóc canh thâu
Ngàn năm có biết đất nào nấu nung
Làng kia lửa cháy điệp trùng
Bốn mùa thiêu đốt tận cùng hang con”

Nếu chúng ta nhìn nhận rằng thơ Thế Phong là thơ của những ai muốn tìm vào sự thật của trạng huống xã hội điên loạn này, thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tiếng thơ Bùi Giáng là thơ của những ai muốn lắng nghe ít nhiều khía cạnh siêu hình (trộn lẫn cùng những bỡn cợt liên quan tới một số người nữ tiêu biểu). Đó là thơ của một thi sĩ vốn bị đời coi như mất thăng bằng trí não!

Đúng vậy. Chẳng những thế giới thi ca của họ Bùi bao la mà còn vô cùng phức tạp, hỗn độn. Bên cạnh những câu thơ chứa chất những ảnh hình, tư tưởng thâm sâu, thi nhân còn vô tình hoặc hữu ý, sắp xếp những bài thơ không những ngây ngô từ ngôn ngữ, hình ảnh mà còn lộn xộn đến cả nội dung nữa.

Người đọc dù kiên nhẫn tới đâu, thân thiết với tác giả bao nhiêu chăng nữa cũng không thể chấp nhận những bài thơ lục bát gần với vè, những bài thơ xuôi suốt một hai trang không hề có một dấu phẩy, cũng như ngôn ngữ lủng củng tới độ người đọc có cảm tưởng: nếu viết một vài giòng và không đề tên Bùi Giáng, dám chắc có người sẽ lầm tưởng đó là đoạn thư của một người ít học, lời lẽ nôm na: “Mùa lụt năm nay anh chèo ghe bắt cá hai con cả thảy bỏ vô nồi nướng đủ hai con một lần ăn hết trong miệng hàm răng em tròn như tiêu ớt no nê thiên thần trời cao té xuống cười như nắc nẻ…” (Hạnh phúc).

Hoặc:

“trời xanh úp mặt nghe tin
thôi rồi em má ri lyn đi rồi”
(Trời Khóc Marilyn)

Hoặc:

“mở trong nguồn lệ phương tràn
cánh se dâu biển hồng tàn khép xiêm
lệch tà sổ đứt ra xem
mòm con mắt ngó ồ em em ồ”
(Ồ Em)

Hoặc:

“trăm năm trong cõi người ta
thân còn chẳng tiếc lọ là ô Ri
riêng công chúa nọ Ly Kỳ
là tôi tiếc suốt li bì càn khôn”
(Nhớ Chế Mân)

Hoặc:

“ở ngoài em có làn da
ở trong em có một tòa thiên nhiên
tứ chi là cẳng, tay mềm
trăm năm động đậy gọng kềm thiên hương”
(Biết Sao Nói Năng)

Hoặc:

“mở hai hàng cỏ thơ ngây
mắt người nương tử đêm dày dạn sương
mở hai hàng cỏ lên đường
liễu in giòng rụng xin nường mở xem”
(Tượng Số Thiên Nhiên)

Nhưng xét cho cùng thì có dễ chính từ chỗ hỗn độn, lung tung ấy, chúng đã cho ta thấy rõ hơn, khía cạnh tâm thành của họ Bùi. Chính từ chỗ thoạt nhìn, tưởng như yếu kém, khiếm khuyết của thi nhân, lại là cố tình, dụng ý, của Bùi Giáng trước tình huống điên đảo, lênh đênh chìm nổi linh của đất nước này?

Bằng vào những căn tính của con người, trước xã hội đổ nát hôm nay, họ Bùi phủ nhận và cố gắng phá vỡ mọi hệ thống được dựng lên, ngợi ca bởi lý trí hư ngụy, có tính cách xảo ngôn của phong trào duy vật (luôn xu hướng duy linh) mà ông cho rằng đang rơi vào cõi hư vô, với vô thức chạy trốn, quay lưng, tìm nguồn an ủi phù phiếm cho riêng mình.

Theo nhận thức của thi sĩ thì, chính những hệ thống, những khuôn mẫu lý trí, máy móc đã đưa con người tới tình trạng phá sản, bầm dập của chủ thể tư duy, triệt tiêu hoài bão tìm về cõi tiên thiên: Lối ngõ giải phóng cho những bế tắc, xung đột tuyệt vọng của những tâm tưởng bệnh hoạn thời đại.

Đây cũng là một lý do, không phải để biện hộ cho tiếng thơ mung lung, không đều dòng của Bùi Giáng, mà có thể, chính là chủ đích của nhà thơ (?). Niềm ao ước gần gũi nhất mà ông hằng ôm ấp, mơ ước trở lại, quay về một nếp đời giản dị, tự nhiên như lá trên cây, trăng sao trên trời, nước xuôi chiều gió… Và, chúng ta cũng không nên lấy làm lạ, tại sao thi sĩ có thể làm cả trăm bài thơ chỉ để ca ngợi một chiếc lá, mong thông cảm, chia sẻ được lời chim, hồn hoa vạn vật:

“Cúi đầu tuân nhận lời chim
Mở hàng môi đỏ của tin cho đời”
(Cành Cong Thu Đỏ)

Hoặc nữa:

“hai bàn tay ngón tay xin
môi mơ màng đỏ của tin ngực tròn
nghĩa là hơi thở chon von
mở xuân thu sợ hao mòn tiếng chim
quay về ngủ mộng bình nguyên
còn mang trong bụng hình tiên nga ngồi
ngày mai mở mắt ngó trời
còn nghe trái đất suốt đời loay hoay”

Tưởng rằng xa mà thật gần kề, tưởng khinh bạc mà thật đơn sơ thuần hậu, tưởng giông bão một vòm trời mê loạn mà thật trong sáng mơn man, tưởng không mà là… Cái hư ảo, thâm thúy phảng phất quạnh hiu của tiếng thơ Bùi Giáng ở đó. Cái đáng kể của thơ Bùi Giáng, cũng ở đó. Phải chăng cái vô cùng nằm ngay trong cái đơn sơ mộc mạc?

Tiếng nói thơ Bùi Giáng là tiếng-nói-im-lặng-thiên-nhiên? Một thứ vô-ngôn-huyền-nhiệm linh cảm sáng lên từ tiềm thức? Một tiếng nói vượt ngoài tiếng nói? Một tâm hồn đã lẫn tan trong từng thớ gỗ, sớ cây, cọng lá…? Do đấy, ngôn ngữ chỉ còn là những xác hình vô nghĩa? Và lý trí phù phiếm chỉ còn là lớp bụi bám?

***

Ý nghĩa cuối cùng của tôi có lẽ là lời nhắc nhở thầm cho chính mình: Hãy bước tới bằng bước chân của gió – Hãy đi vào bằng cửa ngõ cảm thông – Hãy nhìn vào và soi tỏ mặt người bằng ánh sáng của trăng – Hãy trút bỏ những hành lý hệ thống khuôn nếp mà đời đã trang bị cho.

Và hãy nhớ: Khi Khổng Phu Tử hỏi các môn đệ về khát vọng đời sống – Tất cả đều chung một lòng tha thiết kiến tạo xã hội, nâng cao đời sống con người.

Chỉ riêng Tăng Điểm khi được hỏi tới đã gõ đàn thưa rằng: “Tôi muốn mùa Xuân mặc áo bông, rủ một bầy trẻ thơ ra tắm mát sông Nghi, trở lên, hóng gió nền Vũ Vu, rồi hát mà về.”

Khổng Phu Tử gật đầu, buồn mà rằng: “Ta cũng chỉ muốn được như Điểm.” (Du Tử Lê, trích “Năm sắc diện năm định mệnh,” nhà xuất bản Tao Đàn, Sài Gòn, 1965)

Copyright © 2018, Người Việt Daily News

Lưu ý: Để mở âm thanh, xin bấm vào nút muted icon imagephía góc phải bên dưới của khung video.

MỚI CẬP NHẬT