Lịch sử Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang

Trần Ðình

Sau Hiệp Ðịnh Geneve Tháng Bảy năm 1954 chia đôi đất nước, hàng ngàn đồng bào gốc Ba Làng-Thanh Hóa trốn chạy Cộng Sản di cư vào Ðồng Ðế làm ăn sinh sống rồi mau chóng xây dựng lên một làng đánh cá gọi tên là “Ba Làng” trên mảnh đất dài gần 1km và rộng hơn 200 m nằm về phía Ðông của Ðồng Ðế sát bờ biển,… từ đó Ba Làng thuộc lãnh thổ xã Vĩnh Hải, quận Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.

Ðồng thời cũng vào cuối năm 1954, theo quy ước Geneve của trường Ecole De Commando của quân đội Pháp từ Bãi Cháy (Quảng Yên) di dời vào miền Nam, tạm trú tại Suối Dầu (Khánh Hòa), đến đầu Tháng Hai 1955 chuyển tiếp về Ðồng Ðế, đồn trú trong trại binh cũ của Pháp và cải danh là “Ecole De Commando Et Education Physique,” rồi chuyển giao cho Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam do Thiếu Tá Lê Cầm tiếp nhận chỉ huy đầu tiên… và ngay sau đó đổi tên là “Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh tiên Hoàng,” trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Do vậy, quân trường nầy xem như được thành lập kể từ Tháng Hai 1955 tại Ðồng Ðế, Nha Trang.

Tiếp đến đầu năm 1956, Ðại Tá Trần Vĩnh Ðắc được cử về thay thế Thiếu Tá Lê Cầm và một năm sau Ðại Tá Nguyễn Thế Như, tư lệnh Lữ Ðoàn Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống được bổ nhiệm thay thế Ðại Tá Trần Vĩnh Ðắc trong chức vụ chỉ huy trưởng Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh tiên Hoàng, đồng thời một loạt sĩ quan vừa tốt nghiệp các khóa quân sự ở Hoa Kỳ, Okinawa (Nhật Bản) và Mã Lai,… được thuyên chuyển về trường. Ðến đầu Tháng Hai 1957, Bộ Tổng Tham Mưu quyết định đổi tên Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh Tiên Hoàng thành Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa để thích hợp với hoàn cảnh và nhiệm vụ mới.

Trước năm 1955, chẳng mấy ai biết đến vùng đất Ðồng Ðế, nhưng từ khi có một làng đánh cá của dân di cư và một trường Võ Bị QLVNCH được thiết lập tại đây đó là Trường Biệt Ðộng Ðội Thể Dục Ðinh Tiên Hoàng sau cải danh thành Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thì Ðồng Ðế được hầu hết dân chúng địa phương Nha Trang-Khánh Hòa biết đến… và chỉ 2 năm sau vùng đất Ðồng Ðế đã hoàn toàn thay đổi da thịt, dọc theo hai bên con đường phía trước Trường HSQ Ðồng Ðế nối liền từ quốc lộ 1 hướng Tây ra đến tận bờ biển giáp giới với đường Ba Làng dài trên 1km gọi tên là đường Ðồng Ðế bỗng biến thành một khu phố đông đúc tấp nập, nhà cửa dựng lên san sát, dân cư phần đông là đồng bào địa phương Nha Trang, Khánh Hòa đổ về, một phần là thân nhân gia đình của các quân nhân đang phục vụ ở Trường HSQ Ðồng Ðế từ các nơi đến cư ngụ làm ăn sinh sống. Ðồng bào ở đây gọi ngắn gọn Trường HSQ -QLVNCH là “Trường Ðồng Ðế Nha Trang” hoặc “Quân Trường Ðồng Ðế” để thay thế cho cụm từ xưng danh của trường quá dài. Tên gọi Quân Trường Ðồng Ðế dần dà đã trở thành quen thuộc đối với dân chúng và các đơn vị quân đội địa phương đồn trú vùng đất Nha Trang. Khánh Hòa.

Trở lại quá trình 20 năm của quân trường Ðồng Ðế:

  1. Giai đoạn mới thành lập

-Xây dựng doanh trại cơ sở, tiện nghi huấn luyện, bổ sung sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, mở các lớp huấn luyện biệt động đội, thể dục, võ thuật, cận chiến.

-Cấp chứng chỉ B1, B2 cho hạ sĩ quan, tu nghiệp hạ sĩ quan chính quy và hạ sĩ quan các giáo phái Bình Xuyên, Cao Ðài, Hòa Hảo mới được sát nhập vào hàng ngũ QLVNCH.

-Ðào tạo hạ sĩ quan huấn luyện chiến tranh đặc biệt cho Liên Ðoàn 77/LLÐB.

-Huấn luyện căn bản quân sự cho các SVSQ Hải Quân, Không Quân và cuối năm 1958 huấn luyện Biệt Ðộng Quân song song với TTHL Song Mao và Ðà Nẵng trong khi chờ TTHL Dục Mỹ được thành lập.

  1. Giai đoạn huấn luyện đặc biệt

Ðầu năm 1959, chương trình huấn luyến Biệt Ðộng Ðội và Thể Dục cũng như việc huấn luyện tu nghiệp cho hạ sĩ quan các giáo phái hoàn tất, Trung Tá Ðoàn Văn Quảng thuộc binh chủng Lực Lượng Ðặc Biệt được cử về chỉ huy Trường Ðồng Ðế thay thế Trung Tá Nguyễn Thế Như trong giai đoạn trường chuyển mình bước sang giai đoạn và nhiệm vụ mới:

-Chỉnh trang, xây dựng, mở thêm doanh trại.

-Chuẩn bị những nhu cầu, phương tiện cần thiết để nhận trách nhiệm mở các khóa huấn luyện đào tạo Sĩ Quan Hiện Dịch Ðặc Biệt theo chỉ thị của Tổng Thống VNCH Ngô Ðình Diệm sau đợt tổng thống đến thăm các quân đoàn, quân khu, các quân trường như Trường HSQ Ðồng Ðế, Trường Võ Bị Ðà Lạt, Thủ Ðức, Trường Quân Y…

Tài nguyên sinh viên sĩ quan được quy định là những HSQ ưu tú, có trình độ văn hóa từ trung học trở lên, thâm niên cấp bực tối thiểu 2 năm, tác phong hạnh kiểm tốt, có kinh nghiệm chiến trường và phải qua một cuộc thi sách hạch văn hóa do Bộ Tổng Tham Mưu tổ chức. Sau đó, khóa Sĩ Quan Hiện Dịch Ðặc Biệt đầu tiên khai giảng có sĩ số 329 SVSQ.

Chương trình huấn luyện gồm 9 tháng học quân sự tại trường và 3 tháng thực tập tại các đơn vị tác chiến chuyên môn như pháo binh, công binh, thiết giáp, truyền tin,… rồi trở về trường thi trắc nghiệm cuối khóa. Sau 13 tháng tôi luyện võ nghiệp, có 329/350 SVSQ tốt nghiệp.

Lễ mãn khóa I Sĩ Quan Hiện Dịch Ðặc Biệt được tổ chức trọng thể tại Trường Ðồng Ðế vào sáng ngày 23 Tháng Bảy 1960 dưới sự chủ tọa của ông phụ tá bộ trưởng Quốc Phòng và đại tướng TTM trưởng đại diện cho tổng thống VNCH. Sau khi thực hiện thành công tốt đẹp nhiệm vụ huấn huấn luyện cho khóa I Sĩ Quan Hiện Dịch, quân trường Ðồng Ðế một lần nữa được giao trách nhiệm tổ chức mở tiếp các khóa 2, 3 và 4 sĩ quan hiện dịch trong 3 năm liền 1961, 1962 và 1963 ; mỗi khóa với sĩ số trên dưới 500 SVSQ.

Riêng khóa 3 và 4 có hơn 100 sinh viên đả tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh được chính phủ gởi ra trường Ðồng Ðế theo học chung với các SVSQ hiện dịch để sau khi mãn khóa sĩ quan sẽ được bổ nhiệm giữ các chức vụ hành chánh tại các địa phương và trung ương như quận trưởng, phó tỉnh trưởng, chủ sự, giám đốc, v.v…

Chấm dứt việc huấn luyện Sĩ Quan Hiện Dịch vào cuối năm 1963, trường Ðồng Ðế lại tiếp tục gia tăng việc huấn luyện đào tạo hạ sĩ quan cho đến đầu năm 1968.

  1. Giai đoạn đặc biệt khẩn trương

Sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 của Việt Cộng, chính phủ VNCH ban hành lệnh tổng động viên đối với các thanh niên trong hạn tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự có văn bằng tú tài I trở lên, có sức khỏe tốt trình diện nhập ngũ, theo học các khóa sĩ quan trừ bị. Trước tình hình khẩn trương của đất nước, Trường Ðồng Ðế được giao trọng trách mở các khóa huấn luyện sĩ quan trừ bị song song với Trường Võ Bị Thủ Ðức. Từ đó cho đến cuối năm 1973, quân trường Ðồng Ðế đã dồn mọi nỗ lực vào nhiệm vụ liên tục mở ra nhiều khóa đào tạo sĩ quan trừ bị mỗi năm có từ 4 đến 5 khóa, mỗi khóa có từ 500-1000 SVSQ theo học.

Kết quả Trường Ðồng Ðế đã đào tạo thành công cho QLVNCH có thêm trên dưới 12,000 sĩ quan trừ bị trong giai đoạn khẩn trương Việt Nam Hóa Chiến Tranh.Trong quá trình 20 năm, quân trường Ðồng Ðế đã được 17 sĩ quan cấp tướng tá tài ba lỗi lạc, giàu kiến thức quân sự và kinh nghiệm chiến trường chỉ huy hướng dẫn. Trước nhất là Thiếu Tá Lê Cầm, từ đầu tháng Hai 1955, rồi lần lượt tiếp đến :

-Ðại Tá Trần Vĩnh Ðắc

-Ðại Tá Nguyễn Thế Như

-Trung Tá Ðoàn Văn Quảng

-Ðại Tá Ðặng Văn Sơn

-Ðại Tá Ðỗ Cao Trí

-Ðại Tá Nguyễn Văn Kiểm

-Ðại Tá Nguyễn Vĩnh Xuân

-Trung Tá Lê Quang Liêm

-Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là

-Ðại Tá Lâm Quang Thơ

-Ðại Tá Phạm Văn Liễu

-Ðại Tá Lê Văn Nhật

-Trung Tướng Linh Quang Viên

-Chuẩn Tướng Võ Văn Cảnh

-Trung Tướng Dư Quốc Ðống

-Trung Tướng Phạm Quốc Thuần

Quân trường Ðồng Ðế khởi đầu từ một trường biệt động đội nhỏ bé, sau trở thành một quân trường lớn, một quân trường trường kiểu mẫu, một lò luyện thép của QLVNCH, đa năng, đa nhiệm, có khả năng mở nhiều khóa huấn luyện khác nhau, đảm nhiệm những trách vụ khác nhau, từ huấn luyện biệt động đội, thể dục, võ thuật, cận chiến, bổ túc hạ sĩ quan, đào tạo hạ sĩ quan, huấn luyện căn bản quân sự cho SVSQ hải và không quân, đến đào tạo sĩ quan hiện dịch và trừ bị, và đã hoàn thành được nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Ðó là nhờ công lao, lòng nhiệt thành cùng tinh thần phục vụ cao của các vị chỉ huy, trong đó đáng kể nhất là Ðại Tá Ðặng Văn Sơn, tư lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh được tổng thống VNCH bổ nhiệm về chỉ huy quân trường Ðồng Ðế gần cuối năm 1959 với nhiệm vụ đặc biệt là lãnh đạo việc huấn luyện đào tạo sĩ quan hiện dịch, kiện toàn hệ thống tổ chức điều hành của trường và chỉnh trang xây dựng mở mang trường ốc, v.v..

Trong 2 năm giữ chức vụ chỉ huy trưởng quân trường, với tài lãnh đạo chỉ huy sang suốt, kiến thức dồi dào cùng với lòng nhiệt thành hăng say phục vụ,… Ðại Tá Sơn đã hoàn thành được trách vụ một cách tốt đẹp do thượng cấp giao phó.

Quân trường Ðồng Ðế có quá trình 20 năm lịch sử hoạt động không ngừng nghỉ gắn liền với chiều dài chiến tranh VN, đã tạo được những thành tích không nhỏ trong nhiệm vụ thực hiện công tác quân huấn, đã chu toàn tốt đẹp các khóa huấn luyện được giao phó. Là một quân trường huấn luyện biệt động quân đầu tiên, và nhất là đã đào tạo được trên 100,000 hạ sĩ quan ưu tú, 1,800 sĩ quan hiện dịch, 12,000 sĩ quan trừ bị, góp phần không nhỏ vào việc phát triển và nâng cao hiệu năng tác chiến của QLVNCH.

Trong cuộc chiến chống Cộng Sản xâm lược miền Nam, đã có nhiều chiến binh các cấp từ quân trường Ðồng Ðế khi ra trận địa đã giữ tròn lời thề trung thành với tổ quốc, đã chiến đấu rất kiên cường dũng cảm, đã hy sinh cho lý tưởng tự do, đã nằm xuống vĩnh viễn trong lòng đất mẹ VN như :

-Cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí, nguyên chỉ huy trưởng quân trường Ðồng Ðế, trong các chức vụ tư lệnh chiến trường, nổi danh là một tướng lãnh can đảm bất chấp mọi hiểm nguy, luôn luôn có mặt tại mặt trận để chỉ huy điều động các đơn vị dưới quyền chiến đấu,… đã tử nạn trực thăng ngày 23 Tháng Hai năm 1971 trong khi bay thị sát chiến trường ngoại biên.

-Cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, xuất thân khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch trường Ðồng Ðế. Trong các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân, trung đoàn trưởng Bộ Binh, ông nổi tiếng là một cấp chỉ huy can đảm, có biệt tài điều quân chiến đấu, nhất là trong trận đánh giải tỏa An Lộc 1972 và tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Tiểu Khu Chương Thiện. Trong biến cố 30 Tháng Tư 1975 ông đã chiến đấu chống quân xâm lược Cộng Sản đến viên đạn cuối cùng, nhất định không chịu quy hàng địch quân, bị địch bắt được xử bắn tại Cần thơ.

– Cố Ðại Tá Cao Văn Ủy, nguyên trưởng khoa Chiến Thuật, cố Ðại Tá Vũ Phi Hùng nguyên trưởng khoa Vũ Khí trường Ðồng Ðế sau là 2 kiện tá liên đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân nổi tiếng can đảm, là đối thủ đáng sợ của Sư Ðoàn Sao Vàng Việt Cộng.

-Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa, đồng khóa 2 Sĩ Quan Hiện Dịch với cố Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn Quái Ðiểu TQLC, nổi tiếng trong nhiều trận chiến, nhất là trận đánh trực thăng vận đổ xuống ngay trên đầu địch quân để tái chiếm quận Triệu Phong trong “mùa Hè đỏ lửa” năm 1972.

-Trung Tá Lê Quý Dậu, xuất thân khóa 3 Sĩ Quan Hiện Dịch trường Ðồng Ðế, liên đoàn trưởng BÐQ là một cấp chỉ huy kiệt xuất trong nhiều chiến trân, như trận đánh ác liệt tử thủ An Lộc Tháng Sáu 1972.

-Và nhiều những chiến sĩ khác xuất thân từ trường Ðồng Ðế đã nêu cao gương chiến đấu dũng cảm trước họng súng quân thù, đả hy sinh cho lý tưởng tự do, máu của họ đã đổ xuống trong nhiều trận địa, xương thịt đả vùi sâu trong lòng đất mẹ Việt Nam,… nhiều chiến sĩ đã trở thành thương binh, để lại một phần thân thể trong cuộc chiến và nhiều chiến sĩ đang định cư tại các quốc gia tự do trên thế giới sau những năm bị đọa đày, lầm than cơ cực trong ngục tù cải tạo của CS.

Bất ngờ thế cuộc xoay chiều đổi hướng, đồng minh ngoảnh mặt, Hiệp Ðịnh Paris chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình tại VN bị phản bội. Biến cố bất hạnh 30 Tháng Tư 1975 ập đến, Bắc Cộng tràn vào đánh chiếm cả miền Nam, Saigon thất thủ, VNCH sụp đổ, Nha Trang mất, ngôi trường Ðồng Ðế lọt vào tay kẻ thù, hàng triệu người Bắc-Nam xuôi ngược tìm đường trốn chạy CS bỏ nước ra đi, hàng triệu người kẻ vượt núi đồi băng rừng đi đường bộ bất kể hiểm nguy, kẻ đổ xô ra biển lênh đênh trên những con thuyền bé nhỏ mong manh đương đầu với sóng xô bão táp của đại dương mênh mông cùng lũ hải tặc man rợ. Chiến hữu Ðồng Ðế, kẻ mất người còn, kẻ vượt biển, người vượt biên, người bị CS trả thù, đày đọa trong lao tù tăm tối vô vọng…

Ngày tháng qua đi, ngờ đâu vận may lại đến, ngọn lửa ngày mai, tương lai, hy vọng lóe lên, chiến dịch nhân đạo (Humanitarian Operations) ra đời từ bàn tay rộng mở của nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ sau đó. Những chiến binh VNCH trong các trại tập trung dưới chế độ CS dần dần được can thiệp ra khỏi nhà tù CS và cùng với gia đình sang định cư nơi xứ Mỹ hoặc đến các quốc gia tự do khác trên thế giới…

Các cựu chiến binh VNCH có cơ hội gặp lại nhau nơi hải ngoại trong nỗi mừng vui khôn xiết.

Sau cơn mưa trời lại tạnh
Qua cơn giông tố mịt mù trời lại sángChiến tranh nào rồi cũng có ngày tàn
Cuộc chiến VN đã tan
Nhưng tình chiến hữu vẫn thiết tha gắn bó.

Từ tâm nguyện đó cùng với ý chí của anh em tù nhân cải tạo nên đã hình thành được những Hội Ái Hữu các quân binh chủng và các quân trường của QLVNCH ở hải ngoại vào những năm đầu thập niên 90 cho đến nay trong đó có quân trường Ðồng Ðế Nha Trang.

Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang khởi điểm là do một số anh em cựu SVSQ khóa 1 cùng tìm đến nhau tại quận Cam, Nam California Hoa Kỳ rồi hình thành ban đại diện khóa vào đầu năm 1997 để lo việc sinh hoạt và tương trợ nhau đồng thời cùng hợp tác với nhau trong việc tìm kiếm, liên lạc nối kết các chiến hữu đồng môn cựu SVSQ các khóa 1, 2, 3, 4 sĩ quan hiện dịch, các khóa sĩ quan trừ bị cùng các niên trưởng đang định cư tại các tiểu bang Hoa Kỳ và các quốc gia khác trên thế giới nhằm mục đích liên kết lại với nhau thành một tập thể có tổ chức để làm sống lại tình Huynh Ðệ Chi Binh và tương thân tương ái trong cuộc sống tị nạn CS tại hải ngoại.

Kết quả đến đầu năm 1998 đã nối kết được gần 200 anh em cựu SVSQ các khóa rồi bầu được ban đại diện khóa, ban đại diện toàn trường để lo chuẩn bị cho ngày họp mặt cựu SVSQ Ðồng Ðế vào giữa năm 1998 để sau đó tiến hành lập Hội Thân Hữu Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Ðồng Ðế Nha Trang.Ngày họp mặt đầu tiên mang chủ đề “Họp Mặt Tình Nghĩa” được tổ chức vào ngày 26 Tháng Bảy năm 1998 tại thành phố Santa Ana quy tụ được 200 anh em cự SVSQ và gia đình cùng một số niên trưởng và thân hữu nhầm mục đích :

-Nối lại sợi dây thân ái, tình chiến hữu huynh đệ, tình đồng khóa, đồng trường.

-Thảo luận việc thành lập Hội than hữu cựu SVSQ Ðồng Ðế Nha Trang.

-Bầu ban tổ chức đại hội và ban soạn thảo Nội quy Hội thân hữu.

Sau 5 tháng tiến hành, bản dự thảo nội quy của Hội Thân Hữu Cựu SVSQ Ðồng Ðế hoàn thành vào năm 1999 và tiếp theo đó là Ðại Hội Tình Nghĩa Cựu SVSQ Ðồng Ðế Nha Trang khai diễn ngày Chủ Nhật, 5 Tháng Chín 1999 cũng tại thành phố Santa Ana, miền Nam California với sự tham dự của hơn 300 cựu SVSQ và gia đình, cùng hơn 40 Niên trưởng, quan khách và thân hữu đến dự từ một số tiểu bang ở Hoa kỳ, Canada, Úc,… trong số nầy có cựu cố vấn trưởng của trường Ðồng Ðế là Ðại Tá Lewis Millett cùng một số phái đoàn cựu chiến sĩ đại diện các Hội Ái Hữu Quân Binh Chủng tại địa phương, dưới sự chủ tọa danh dự của Cựu Ðại Tá Phạm Văn Sơn, cựu chỉ huy trưởng Ðồng Ðế trong những năm đầu của thập niên 60.

Mục đích của đại hội là gắn kết, phát huy tình chiến hữu huynh đệ và tương thân tương ái giữa các các cựu chiến sĩ đã một thời thụ huấn tại trường Ðồng Ðế Nha Trang, thông qua nội quy của hội, thực hiện đặc san làm tiếng nói của hội và bầu các phần hành điều hành hội trong nhiệm kỳ 3 (1999-2002).

Nội quy của cựu SVSQ Ðồng Ðế gồm 8 Chương và 22 điều khoản với tôn chỉ là:

“Làm mục đích kết hợp tất cả các chiến hữu không phân biệt cấp bực, đã từng thụ huấn tại quân trường Ðồng Ðế Nha Trang thành một tập thể nhằm duy trì, phát huy tình chiến hữu, tình đồng khóa đồng trường để tương thân tương ái, chung vui xẻ buồn trong cuộc sống tha hương nơi hải ngoại.”

Ban Chấp Hành và Ban Giám Sát do đại hội bầu ra gồm các cựu SVSQ các khóa 1, 2 , 3 hiện dịch và các khóa trừ bị. Sau 3 năm tích cực hoạt động, Ban Chấp Hành, Ban Giám Sát nhiệm kỳ 1 mãn nhiệm. Ðại Hội Tình Nghĩa Cựu SVSQ kỳ V được tổ chức ngày 25 Tháng Tám 2005 tại thành phố Westminster, miền Nam California với mục đích thảo luận và biểu quyết việc mở rộng Hội Thân Hữu Cựu SVSQ thành Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang cho phù hợp với tình hình thực tế và mời gọi tất cả các chiến hữu không phân biệt cấp bực, đã từng một thời phục vụ hoạc thụ huấn tại Trường Ðồng Ðế tham gia vào hội, bầu Ban Chấp Hành, Ban Giám Sát cho nhiệm kỳ 2002-2005. Ðặc biệt các thành viên trong ban chấp hành của hội bầu ra đều là những đồng môn trẻ hay trung niên thuộc các khóa sĩ quan trừ bị, thay thế cho lớp đàn anh các khóa hiện dịch hiện nay đều đả cao niên.Vào cuối Tháng Tám 2005, Ban Chấp Hành và Ban Giám Sát nhiệm kỳ 2 chấm dứt nhiễm vụ. Ðể mọi sinh hoạt của hội không gián đoạn, Ðại Hội Tình nghĩa Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang kỳ thứ VIII được tổ chứ ngày 4 Tháng Chín 2005 tại thành phố Santa Ana, quận Cam để bầu Ban Chấp Hành và Giám Sát mới cho nhiệm kỳ 2005-2008, tu chỉnh Nội Quy và ấn định thể thức bầu ban cố vấn của hội. Kết quả tất cả 6 thành viên trong ban chấp hành nhiệm kỳ mới đều là các cựu SVSQ trừ bị. Riêng Ban Cố Vấn, đại hội đồng thuận để ban chấp hành mời một số quý niên trưởng và huynh trưởng. Ðại hội cũng tán thành tu chính một số điều khoản trong Bản Nội Quy của hội, đặc biệt chú trọng đến điều khoản tương trợ hội viên bị bệnh hoạn, gặp hoàn cảnh khó khăn, tích cực giúp đỡ các chiến hữu, các thương binh, gia đình cô nhi quả phụ thuộc Trường Ðồng Ðế xưa mà ngày nay đang sống cơ cực lầm than nơi quê nhà.

Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang từ ngày thành lập cho đến nay và trong quá trình 9 năm hoạt động đả tổ chức được một ngày họp mặt toàn trường, 7 đại hội thường niên, tất cả đều mang chung chủ đề là: “Ðại hội Tình Nghĩa” và mỗi năm lại tổ chức họp mặt tất niên hoặc tân niên một lần. Ðường hướng sinh hoạt chung của hội đều theo đúng tôn chỉ, mục đích đã đề ra ngay từ ngày hội mới thành lập, đó là:

“Lấy tình nghĩa huynh đệ chi binh và lý tưởng tự do làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Nối kết tất cả các chiến hữu không phân biệt cấp bực cũ đã một thời phục vụ hay thụ huấn tại Trường Ðồng Ðế Nha Trang thành một tập thể có tổ chức, nhằm duy trì phát huy tình huynh đệ đồng môn đồng trường để tương thân tương ái, chung vui xẻ buồn với nhau trong cuộc sống tha hương nơi hãy ngoại.”

Ngày nay anh em cựu chiến binh Hội Ái Hữu Quân Trường Ðồng Ðế Nha Trang dù ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều ý thức được rằng:

Cuộc chiến đã tàn, nhưng tình chiến hữu vẫn thiết tha gắn bó…

Và luôn luôn hướng về quê hương đất nước, nhớ về nơi quân trường cũ, chiến trường xưa…

Mời độc giả xem bình luận “Tình nghĩa đồng hương”(Phần 2)