Khi âm nhạc cũng bị cấm

Lê Phan

Tôi có một người bạn già mà thú vui mỗi mùa Giáng Sinh là phải đi nghe Messiah của Handel, bản đồng ca vui mừng của Handel nói về Đấng Messiah Chúa Cứu Thế. Mặc dầu không phải là một người Kitô Giáo, tôi đồng ý với ông bạn là đến dịp Giáng Sinh mà không được nghe điệp khúc Hallelujah thì có một cái gì đó thiêu thiếu.

Tôi cũng có một người bạn đồng nghiệp hiện đang làm phóng viên cho đài BBC ở Bắc Kinh. Chị bạn tôi, cũng như ông bạn già, vẫn coi đi nghe Messiah vào dịp Giáng Sinh là chuyện không thể không có được. Nhưng tôi mới nhận được một tin nhắn của cô bạn than thở “Năm nay không còn được nghe Handel ở Bắc Kinh nữa.”

Ngạc nhiên tôi đi tìm hiểu thì mới tìm được một bài của tờ The Economist viết hồi Tháng Tám trong đó tờ báo nói là “Ở Trung Quốc, hát Messiah của Handel nay bị cấm, cũng như cấm mọi trình diễn âm nhạc tôn giáo nào ngoài nơi thờ phượng.”

Kể ra nhà cầm quyền Bắc Kinh coi bản nhạc đó của Handel là âm nhạc tôn giáo thì cũng phải. Handel viết bản nhạc đó cho Lễ Phục Sinh và nó đã được lần đầu tiên trình diễn ở sân khấu của thính phòng Musick Hall ở Dublin vào ngày 13 Tháng Tư, 1742.

Tạp chí của Viện Smithsonian viết: “Những người đàn ông và đàn bà được vào thính phòng đã ngồi lặng người say mê khi giọng tenor mở ra với lời mở đầu ‘Comfort ye, comfort ye my people, saith your God.’ Và rồi sau đó những giọng đơn ca pha lẫn những làn sóng của các đoạn đồng ca nói lên câu chuyện của Đấng Messiah Chúa Giê-Su từ khi chào đời, cuộc đời, cái chết và sự phục sinh và chiến thắng sau cùng đối với mọi tội lỗi và cái chết. Và hào hứng nhất là điệp khúc ‘Hallelujah’ mà âm thanh hào hùng thường được chào đón ở Anh bằng cách mọi người đứng dậy như muốn tham gia.”

Tạp chí The Economist kể lại câu chuyện của ban đồng ca International Festival Chorus (IFC), một ban đồng ca 60 người gồm những ca nhạc sĩ tài tử người Hoa và người ngoại quốc, vốn trong nhiều năm nay trình diễn âm nhạc cổ điển Tây phương cho khán giả Trung Hoa. Nhưng hồi Tháng Tám vừa qua, ban đồng ca đã trình diễn lần cuối, một cuộc thu âm một bản nhạc của một trong số rất ít những nhạc sĩ Trung Hoa viết nhạc cổ điển, một bài nói về sông Hoàng Hà. Bản nhạc của ông Tiền Tinh Hải, một nhạc sĩ học ở Paris thời thập niên 1920 và là nhạc sĩ đầu tiên của Trung Cộng bị ảnh hưởng nhạc cổ điển Tây phương, nói đến “Những đứa con của Trung Hoa sẽ luôn ao ước hòa bình,” có lẽ không hợp với những gì ông Tập Cận Bình muốn cho Trung Cộng ngày nay. Và chủ tịch Tập đã chiến thắng, có thể là một chiến thắng với ảnh hưởng văn hóa Tây phương, nhưng là một thứ thắng như là thua.

Âm nhạc thính phòng Tây phương không có một số khán giả rộng lớn ở Trung Cộng. Nhưng ở tỉnh Vân Nam ở miền Tây Nam, những ban đồng ca của dân tộc mà người Hoa gọi là Miao và họ tự gọi mình là Hmong, vẫn còn tiếp tục hát Messiah của Handel, mà họ được các nhà truyền giáo dạy cho từ nhiều đời nay.

Trong những năm trước Thế Vận Hội năm 2008, ban đồng ca IFC đã thường bán hết sạch vé cho các cuộc trình diễn ở đại thính đường ngay kế bên Tử Cấm Thành với những cuộc trình diễn “Messiah.” Nhà cầm quyền đã chỉ ra điều này trong cố gắng thuyết phục các viên chức của Ủy Ban Thế Vận Quốc Tế IOC là Trung Quốc đã trở thành lịch thiệp và quốc tế.

Nhưng, cũng như “Messiah,” hầu hết các bản đồng ca của nhạc cổ điển Tây phương đều có nguồn gốc Kitô Giáo. Năm 2008, sau khi Thế Vận Hội chấm dứt, nhà cầm quyền lặng lẽ cấm mọi trình diễn âm nhạc tôn giáo. Cũng như mọi sự ở Trung Cộng, không có luật lệ gì cấm cản cả. Nhưng các ban đồng ca ngày càng thấy không làm sao bán vé được. Họ cũng không xin được giấy phép hay thuê được thính phòng. Với ngày càng ít những cuộc trình diễn, khán giả cũng giảm dần theo. Ở Bắc Kinh, IFC gắng tiếp tục, tổ chức những buổi trình diễn “riêng” mỗi Giáng Sinh. Nhưng buổi trình diễn “Messiah” vào Tháng Mười Hai, 2016, là buổi trình diễn cuối cùng.

Đảng Cộng Sản đã có thời bao dung hơn và các lãnh tụ Cộng Sản cũng có thời hiểu biết rộng rãi hơn. Những cựu lãnh tụ như Chu Ân Lai đã từng sống ở ngoại quốc. Ngay chính cả ông Mao Trạch Đông cũng đã sống trong thời trẻ khi cánh cửa cho văn hóa quốc tế còn mở rộng. Đến cả những thế hệ như ông Giang Trạch Dân cũng được nói là đã mở bản “Requiem” của Mozart để mặc niệm khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình qua đời năm 1997. Ông Mao Trạch Đông đã tặng cho nhạc sĩ Tiền Tinh Hải một cây bút để chứng tỏ sự tán thưởng tài năng của nhạc sĩ.

Nhưng ông Tập khác với họ. Là một người, vì tham vọng đã từ chối đi học ngoại quốc, ông Tập do đó cũng có một cái nhìn thiển cận hơn về những gì có thể chấp nhận được về văn hóa. Năm ngoái, ông tuyên bố là đảng phải “cương quyết đề phòng sự xâm nhập từ hải ngoại qua các phương tiện tôn giáo.” Các viên chức địa phương có vẻ đã diễn dịch lệnh này là một chỉ dấu để gia tăng tấn công vào Bach, Verdi và cả Handel nữa.

Trong giai đoạn Cách Mạng Văn Hóa của ông Mao Trạch Đông, tất cả âm nhạc Tây phương kể cả nhạc cổ điển bị lên án và những ai trình diễn đã phải im tiếng. Cũng trong giai đoạn đó tôn giáo bị cấm, đặc biệt nhất là Kitô Giáo. Nhưng những thập niên sau đó, với chủ thuyết nhường chỗ cho thực tế và kinh tế nối liền liên hệ với phần còn lại của thế giới, âm nhạc Tây phương được chào đón. Những đại thính đường được dựng lên, một thế hệ mới những nhạc sĩ nhạc cổ điển như Lang Lang xuất hiện trên sân khấu quốc tế. Ba vị tenor nổi tiếng, các ông Placido Domingo, José Carreras và Luciano Pavarotti, được mời đến trình diễn ở Trung Cộng.

Nhưng trong khi đó đảng Cộng Sản vẫn sợ tôn giáo. Xuất thân cũng từ những hội kín kể cả các hội kín tôn giáo, đảng Cộng Sản Trung Hoa rất sợ sức mạnh của tôn giáo. Phản ứng tàn bạo của họ với Pháp Luân Công cho thấy họ sợ sức mạnh của tôn giáo đến mức nào. Họ cũng chưa quên bài học lịch sử là các cuộc cách mạng lật đổ chính quyền ở Trung Hoa đã thường xuất phát từ các giáo phái. Đối với Kitô Giáo, họ vẫn luôn nghi ngờ và lo sợ bởi vì Kitô Giáo cho người ta một uy quyền tối thượng và một luật lệ có thể nói vượt trên luật lệ nhà nước. Các website của đảng Cộng Sản thường chỉ ra những trường hợp các nhà truyền giáo ngoại quốc “phục vụ quyền lợi của thực dân và đế quốc,” một chuyện đã chỉ xảy ra thời thế kỷ thứ 19, nhưng họ nói đến như là chuyện hôm nay.

Và từ tôn giáo, nay đến cả âm nhạc tôn giáo tây phương cũng không còn được cho phép trình diễn nữa. Điều này đã làm một số nhà quan sát ngạc nhiên. Bởi sự bành trướng của Kitô Giáo ở Trung Cộng không phát xuất từ các thính phòng ở các thành phố lớn. Ngay hiện nay các nhà thờ, kể cả các nhà thờ của giáo hội thầm lặng, đầy người, nhưng ở những nhà thờ này có mấy ai biết đến tiếng nhạc của Handel hay Bach.

Một phóng viên của tờ Guardian ở Trung Cộng có lần nhận xét “Mỗi khi đảng Cộng Sản cảm thấy thiếu tự tin và bất an, họ thường quay ra bài Tây phương và ảnh hưởng của phương Tây. Theo tôi cấm âm nhạc cũng là một chuyện như vậy.”

Những người bênh vực cho ông Tập lập luận là Trung Cộng có thể chọn những gì họ muốn từ thế giới bên ngoài. Và nếu họ bác bỏ âm nhạc tôn giáo, điều đó không có nghĩa là họ bỏ qua những hình thức khác của văn minh Tây phương. Nhưng âm nhạc, nhất là âm nhạc tôn giáo của nhạc cổ điển, là một phần quan trọng của văn minh Tây phương. Và khi xây tường không cho dân chúng nghe âm nhạc cổ điển Tây phương nữa, họ cũng đã làm cho mình nghèo thêm về phương diện văn hóa mà cũng chưa chắc thêm an toàn.

Riêng với chị bạn tôi ở Bắc Kinh thì tôi đã gửi cho chị qua một người bạn khác một CD “Messiah” để giúp cho tiếng nhạc của Handel vẫn còn tiếp tục dầu chỉ là ở một apartment của một người ngoại quốc. (Lê Phan)